bài viết đã được lược bớt và chỉnh sửa rất nhiều những đoạn rườm rà không cần thiết và sai chính tả . Và cũng đã lược bớt những trích dẫn từ các sách sử mà tác giả nên đưa vào phần ghi chú cuối bài để cho bài viết được mạch lạc và dễ theo dõi .
CHƯƠNG 1 : NGUYÊN NHÂN, CHỦ TRƯƠNG VÀ THÀNH PHẦN CỦA CUỘC NAM TIẾN .
( Đổng Thành Danh )
Nam tiến là một sự kiện lịch sử quan trọng, nó thể hiện chiều hướng phát triển của dân tộc. Xu thế phát triển đó không phải vô cớ mà có, có những động lực, nguyên nhân đưa đến quá trình mở cõi về phía Nam của dân tộc Việt. Những nguyên nhân đó đã đưa đến xu thế Nam tiến của người Việt, nhưng phải cần có những tiền đề, những điều kiện để thực hiện cuộc Nam tiến ấy.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải biết cách thức, phương pháp của người xưa để thực hiện cuộc Nam tiến, trong đó có hệ thống những chủ trương, đối sách của các triều đại, các ông vua, chúa, đây là một vấn đề rất quan trọng. Những chủ trương, đối sách rất rất cần thiết khi nghiên cứu, thực hiện đề tài này, vì từ đó ta có thể hiểu được diễn biến công cuộc Nam tiến sau này. Mặt khác, chúng ta cũng cần nên quan tâm đến những thành phần, lực lượng từ quan lại, đến nhân dân đã tham gia, đóng góp vào quá trình Nam tiến.
Những vấn đề trên sẽ được chúng tôi trình bày trong chương này : chúng tôi chia nội dung phần này ra làm hai phần : một là hoàn cảnh lịch sử đưa đến việc tiến hành Nam tiến, thứ hai là những đối sách, chủ trương, những thành phần lực lượng tham gia vào quá trình này.
1. Bối cảnh lịch sử, những nguyên nhân của cuộc Nam tiến.
Từ trước đến nay khi nói đến nguyên nhân đưa đến cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, chúng ta thường thấy nói rằng : vì nước Việt Nam phía Bắc đối diện với Trung Quốc hùng mạnh, lúc nào cũng đe dọa đến sự tồn vong, đến nền độc lập Đại Việt. Do đó để phát triển lãnh thổ, cũng như tăng cường sức mạnh, tạo ra những đề kháng trước phương Bắc ( Trung Quốc ) tổ tiên chúng ta phải Nam tiến vì phía Tây nước ta giáp với Lào có dãy Trương Sơn hùng vĩ ngăn trở, địa hình khó khăn để đi qua và liên kết, trong khi nhìn về phía Đông lại là biển nên người Việt không thể mở ra. Chỉ có phương Nam là dễ tiếp xúc, dễ liên kết, phương Nam lại là vùng đất mới tuy là lãnh thổ của dân tộc khác, nhưng đất đai chưa khai phá hết, càng về phương Nam đất đai lại càng trù phú, người Việt chỉ có thể mở cõi về phương Nam để mưu cái lợi sau này.
Nói như vậy có thể đúng nhưng lại chưa đủ. Nước Việt Nam, từ bao đời nay lúc nào cũng lo lắng cho sự trường tồn của mình trước một đế quốc Trung Hoa, một đế quốc lúc nào luôn lăm le xâm chiếm nước ta. Nhưng đó chưa phải là tất cả lý do để người Việt thực hiện cuộc Nam tiến. Việc đưa ra nguyên nhân trên để giải thích Nam tiến có chỗ không xác đáng, ở chỗ người Việt không cần phải mở đất về Nam họ vẫn có thể đối chọi với Trung Quốc và khi họ đã Nam tiến thì đâu có nghĩa là Trung Quốc không có tham vọng xâm lược nước Việt nữa, đó là những điều không xác đáng của nguyên nhân này. Có lẽ người ta đưa ra nguyên nhân này để cố biện minh cho sự Nam tiến là bắt buộc, là hoàn cảnh khó xử của nước Việt. Xem thế, thì nguyên nhân này không đủ là lý do của cuộc Nam tiến, nó không giúp chúng ta lý giải được nguyên nhân thực tế, nguyên nhân xâu xa của công cuộc Nam tiến, từ nguyên nhân này chúng ta không thể xem Nam tiến như là một xu thế phát triển của đất nước, một xu thế tự nhiên, tất yếu được.
Trong bài viết này, tôi muốn trình bày nguyên nhân của quá trình Nam tiến như là một xu thế tất yếu của lịch sử. Một dân tộc nào cũng vậy, khi thực lực của họ đã lớn, đã hùng mạnh họ cần phải có một vùng đất để phát triển, khi mở rộng họ phải gặp một dân tộc khác và kết quả là hình thành xung đột, nếu gặp phải một dân tộc yếu thì dân tộc đó sẽ bị tiêu diệt mà lấy đất, nhược bằng gặp phải dân tộc mạnh thì có thể lại bị xâm chiếm. Cái quy luật tất yếu, “ cá lớn nuốt cá bé ” đời nào mà không có, nơi nào mà không tồn tại. Có dân tộc nào, đất nước nào khi sức mạnh phát triển lại không lo mở đất, tạo điều kiện cho dòng giống mình phát triển, trong quy luật đó kẻ yếu phải cáo chung kẻ mạnh thì phát triển cũng là chuyện thường tình !
Ngày xưa người Trung Quốc vốn ở phía Bắc sông Dương Tử, cũng vì cái quy luật chung đó, mà tiến xuống phia Nam sông Dương Tử, giành lấy đất đai của người Bách Việt mà phát triển, người Bách Việt ngày càng mòn mỏi, phải dần dàn tháo lui về phương Nam xa xôi, quốc gia Trung Quốc từ đó mới có được phần lãnh thổ lớn như bây giờ. Xa hơn về nước Mỹ, ban đầu lập quốc cũng chỉ có một phần đất nhỏ ở phía Đông, sau đó nhờ đi xâm chiếm, nhờ mua bán mà mở rộng lãnh thổ ra gấp nhiều lần.
Nước Việt Nam ta, cũng nằm trong xu thế đó, từ sau khi thoát ra khỏi ách thống trị ngót ngàn năm của phương Bắc. Đất nước bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, đương sung mãn, trải qua các triều đại ban đầu ngắn ngủi, bước vào thời đại Lý – Trần, kinh tế, văn hóa, xã hội không ngừng phát triển, từ đó Đại Việt đã đạt được những sự hưng thịnh nhất định, thời Lê Sơ, đặc biệt là thời Lê Thánh Tông nước Đại Việt lại phát triển thịnh đạt vô cùng, sau này đến thời chúa Nguyễn cũng vậy. Một quốc gia phát triển như thế thì phải mở rộng cương thổ của mình chứ ! Làm sao có thể ở một chỗ, một vùng mà phát triển được ? Theo chúng tôi đây là một xu thế tất yếu, một nguyên nhân khách quan.
Hơn nữa, dân cư Đại Việt ngày càng phát triển, đồng bằng Bắc Bộ không còn đủ sức chứa cho một dân tộc đang sung mãn, dân cư ngày càng đông đúc, làng xã miền Bắc thì ngày càng chật hẹp, ruộng đất canh tác ngày càng không đáp ứng được nhu cầu đất đai, chỗ ở, lương thực cung cấp cho con người ..... Theo tính toán của nhà nghiên cứu Li Tana, dân số Đại Việt khoảng cuối thế kỷ XV là 3 triệu người, Li Tana tính toán dân số dựa trên số làng xã cũng như số đinh mà sử liệu ghi lại rồi tính toán dựa trên số đinh bình quân của mỗi làng xã, cách tính này dựa khá nhiều vào sự chính xác của số làng xã và số lượng dân cư bình quân.
Một căn cứ khác để xác nhận tính đúng đắn của con số 3 triệu người là vào thời nhà Hồ, Hồ Qúy Ly muốn xây dựng một đội quân 1 triệu người, Hoàng Hối Khanh mới được giao làm sổ hộ tịch và thống kê số đinh, không có sử liệu ghi nhận về số đinh, số thống kê, nhưng xem mong ước và thái độ hài lòng sau khi xem thống kê số dân của Hồ Qúy Ly thì ta thấy dân số Đại Việt thời đó có thể sấp xỉ theo tính toán của Li Tana. Nhiều nhà nghiên cứu gần đây cho rằng tham vọng xây dựng một đội quân 1 triệu người thời kỳ này là không tưởng, nhưng như ta đã thấy Hồ Qúy Ly là một con người thực tế, một nhà cải cách quan trọng, xét cho cùng cũng là một người tài biết suy nghĩ, chẳng lẽ ông lại đưa ra ý định xây dựng một đội quân triệu người, mà không một tính toán, không có một cơ sở nhất định.
Đặt giả thuyết ông có một đội quân triệu người thì dân số Đại Việt thời này phải khoảng 5 triệu, cứ 5 dân 1 quân là chuyện không hiếm thời kỳ này, vì chúng ta biết lúc này nhà Hồ đang chuẩn bị kháng chiến với quân Minh. Hoặc giả, cho rằng việc xây dựng đội quân 1 triệu người của Hồ Qúy Ly là quá đáng, không thể thực hiện được thì cứ bỏ bớt quân đi, khi đưa ra ý định trên hẳn rằng, Hồ Qúy Ly phải có một tính toán nhất định, nếu như không thể xây dựng được một đội quân triệu người thì ít nhất cũng là nữa triệu tức là ½ với ước muốn của Hồ Qúy Ly. Tóm lại, khi đã đưa ra yêu cầu xây dựng đội quân triệu người, thì một nhà chính trị lỗi lạc như Hồ Qúy Ly đã có một tính toán, một cơ sở chắc chắn và ít nhất nếu như không có một đội quân triệu người thì cũng có một đội quân nữa triệu, theo giả thuyết 5 dân 1 quân, thì ít nhất Đại Việt thời này có khoảng 2,5 – 3 triệu. Vậy, thì thống kê dân số của Li Tana cũng có cơ sở lắm !
Tất nhiên, điều quan trọng không phải ở đó mà qua đó tôi muốn nói rằng : ở Đại Việt thời Lê Sơ, Đàng Ngoài thời Lê – Trịnh trong hai thế kỷ XV – XVII dân số ngày càng tăng, thậm chí đến cả triệu người, với trình độ sản xuất thời đó, sản lượng nông sản tạo ra ngày càng không đáp ứng hết nhu cầu của người dân kết quả là nhiều người phải đi tìm cùng đất mới để khai phá, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh Nam – Bắc triều, Trịnh – Nguyễn phân tranh, cộng với sự gia tăng thiên tai thường xuyên hằng năm cũng làm cho tình trạng, đói kém ngày càng phổ biến và có tính liên tục.
Tất nhiên tình trạng đói kém, mất mùa trên không hẳn chỉ là do sự phát triển của dân số và gia tăng của thiên tai như đã nói ở trên, mà một nguyên nhân nữa cũng quan trọng không kém dẫn đến tình trạng trên, tạo điều kiện cho những cuộc Nam tiến của nhân dân ( cần phân biệt Nam tiến của nhân dân và Nam tiến của chính quyền, cuộc Nam tiến của nhân dân là các cuộc di dân tự phát của những lưu dân, trên bước đường họ di cư vào Nam ). Đó là tình trạng xung đột giữa các tập đoàn phong kiến đầu tiên là Lê – Mạc, sau đến Trịnh – Nguyễn đã làm cho đời sống của người nông dân ngày càng cơ cực, ruộng đồng bỏ hoang. Đây cũng là nguyên nhân thúc đẩy cuộc Nam tiến của người Việt, nhưng đây chỉ là một nguyên nhân chủ quan.
Từ các thời Lý – Trần, Đại Việt đã bước những bước đầu tiên về phía Nam, nhưng dựa vào những chứng cớ lịch sử từ hai phía ( Đại Việt và Champa ) , thì lúc này Đại Việt chưa có chủ trương Nam tiến, lúc này họ chỉ thu được phần lãnh thổ mới do vua Champa dâng nộp : lần đầu vào năm 1069, thu lấy Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý do vua Champa dâng cho Đại Việt để được tha về nước, đến năm 1306 cũng do vua Champa dâng hai đất châu Ô, Lý để cưới công chúa Đại Việt.
Mãi đến thời Hồ – Lê, các quân vương Đại Việt mới chủ động đánh và lấy các phần đất của Champa về cho Đại Việt, mở rộng cương vực quốc gia. Về Nguyên nhân các vương triều này tấn công xuống, lấy đất Champa tôi không bàn đến nữa, tôi cho rằng đây là chủ trương của họ, trong những lần Nam tiến này chính quyền đều là lực lượng chính và những lưu dân sau này mới di dân vào vùng đất mới thu lấy. Như vậy, theo tôi, cuộc Nam Tiến thời Hồ ( 1402 ) và thời Lê Thánh Tông ( 1471 ) nằm trong nguyên nhân là muốn mở rộng sức mạnh, thực hiện theo tình thần tự nhiên, khách quan của quy luật mạnh được yếu thua ( đã đề cập lúc đầu ) mà ở bất cứ thời gian nào, không gian nào của lịch sử cũng đều tồn tại.
Một nguyên nhân nữa cũng quan trọng nằm ở khía cạnh “ Nhà nước theo sau ” của Nam tiến chính là cuộc xung đột Trịnh – Nguyễn và khát vọng vươn lên, tăng cường sức mạnh của chúa Nguyễn. Cuộc xung đột này đã dẫn đến cuộc phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài. Trong cuộc xung đột đó, lúc đầu thực lực của chúa Nguyễn rất kém, chúa Nguyễn từng phải xưng thần, tỏ ra thần phục với chúa Trịnh, chính vì thế để tăng cường thực lực của mình chúa Nguyễn đã tìm cách bám vững chắc ở vùng Thuận – Quảng, không những thế một chủ trương quan trọng khác, nhầm tăng cường thế mạnh của mình, đề phòng với chúa Trịnh ở phương Bắc, chính là hoạt động Nam tiến.
Tóm lại, ở trên chúng tôi đã đề cập đến những nguyên nhân đưa đến sự di dân của người Việt, có thể tóm tắt lại ở ba nguyên nhân chính :
Thứ nhất, phải kể đến sự vươn lên mạnh mẽ của một quốc gia Đại Việt đang muốn trở thành một quốc gia hùng mạnh, được các quốc gia lân bang kính sợ, các quốc gia lớn nể phục, thiết nghĩ sự bành trướng của người Việt cũng chỉ là quy luật mạnh được yếu thua, anh không đi chiếm đất người thì người cũng chiếm đất anh !
Thứ hai, là sự gia tăng của dân số, thiên tai, đất đai ngày càng thu hẹp, không đáp ứng đủ nhu cầu cho người dân, cộng với chiến tranh, sưu thuế, lao dịch liên tục, thúc đầy hàng đoàn người di cư về Nam. Những bước chân của những người lưu dân này chính là những minh chứng cho quá trình Nam tiến, những bước chân của những người khai thiên mở cõi chính là những bước tiến vĩ đại của lịch sử dân tộc Việt Nam, trên lộ trình mở cõi về phương Nam.
Thứ ba, một nguyên nhân chủ quan là cuộc xung đột Trịnh – Nguyễn và những kỳ công mở cõi của các chúa Nguyễn về phương Nam. Đây là giai đoạn Nam tiến cuối cùng, nhưng mạnh mẽ, sôi nổi nhất trong lịch sử Nam tiến của người Việt, một cuộc Nam tiến chỉ võn vẹn trong chưa đến 1,5 thế kỷ, nhưng có vai trò quan trọng nhất trong lộ trình Nam tiến từ trước đến nay. Chính từ thời kỳ chúa Nguyễn, lãnh thổ nước Đại Việt đã tăng lên gấp đôi, những vùng lãnh thổ mới ở Nam bộ, nổi tiếng là vựa lúa “ khổng lồ ” của cả nước, được sáp nhập vào nước ta. Xem thế, thì vai trò của chúa Nguyễn với quá trình Nam tiến thật là to lớn !
2. Chủ trương, đối sách và thành phần tham gia vào công cuộc Nam tiến.
2.1 Hoàn cảnh, điều kiện quốc gia và khu vực ảnh hưởng đến việc đề ra chủ trương, đối sách và những thành phần dân cư thực hiện cuộc Nam tiến của Đại Việt :
Nam tiến không chỉ là một quá trình xuất phát từ những hoàn cảnh cơ bản của nội tình Đại Việt, mà nó còn liên quan nhiều đến mối quan hệ của Đại Việt với các quốc gia lân bang, gận cận và liên quan trực tiếp nhất là Champa và Chân Lạp, không những thế quá trình Nam tiến còn gắn liền gian tiếp với các mối quan hệ giữa Đại Việt với các quốc gia lân bang khác như Trung Quốc, Xiêm La. Nam tiến như thế, là một tổng hòa các mối quan hệ giữa Đại Việt với các quốc gia lân bang, không những chỉ là mối quan hệ song phương, mà còn là đa phương.
Trong tổng hòa mối quan hệ đó Nam tiến không chỉ quyết định từ ý chí chủ quan của người Việt, hoàn cảnh lịch sử của nước Đại Việt, mà còn phải phụ thuộc nhiều vào nội tình của các quốc gia Champa, Chân Lạp, cũng như những hoàn cảnh chung của mối quan hệ lịch sử những biến động của khu vực trong từng giai đoạn, từng thời kỳ khác nhau. Trong từng thời kỳ, từng hoàn cảnh khác nhau đó, người Việt ( bao gồm chính quyền và nhân dân Việt ) phải có những chủ trương, đối sách phù hợp với từng thời kỳ, khôn khéo, linh hoạt thay đổi ở mỗi hoàn cảnh khác nhau để có thể thực hiện thành công quá trình Nam tiến.
Vì thế, trước khi phân tích những hệ thống chủ trương, đối sách để thực hiện Nam tiến, tôi xin khái lược về những hoàn cảnh, điều kiện trong mỗi thời kỳ Nam tiến của lịch sử Việt Nam. Những hoàn cảnh, điều kiện trong nước và mối quan hệ khu vực đó chính là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc đề ra những chủ trương, đối sách của chính quyền Đại Việt qua mỗi thời kỳ mở cõi về phương Nam.
Trong giai đoạn đầu, cuộc Nam tiến của người Việt, chủ yếu chịu ảnh hưởng từ mối quan hệ Đại Việt – Champa, có khi là mối quan hệ Đại Việt – Chân Lạp, Đại Việt – Trung Quốc, Đại Việt – Champa – Chân Lạp – Trung Quốc ..... Tất nhiên, mối quan hệ Đại Việt – Champa là yếu tố chính chi phối cuộc Nam tiến thời kỳ này ( thời kỳ đầu ) , nội tình nước Champa cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến chủ trương, đối sách của Đại Việt thời kỳ này. Trong giai đoạn này, nội tình Đại Việt, Champa, mối quan hệ Đại Việt – Champa, có một số đặc điểm sau :
Về nội tình Đại Việt, sau năm 938 nước Đại Việt bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, vượt qua những biến chuyển, những rối loạn ban đầu của quá trình xây dựng một quốc gia phong kiến tự chủ từ thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, đến thời Lý – Trần, sau này là Lê Sơ quốc gia Đại Việt nói chung và chế độ phong kiến Đại Việt nó riêng ngày càng đi vào ổn định và không ngừng hoàn thiện. Trong bối cảnh đó, các ông vua Đại Việt một mặt lo cũng cố nội trị một mặt lo đối phó với Trung Quốc, tuy bề ngoài xưng thần với phương Bắc nhưng bên trong vẫn luôn cố gằng giữ vững nền độc lập và vẫn luôn lo lắng xây dựng, cũng cố thế lực hầu đối chọi với phương Bắc. Đối với các bộ tộc thiểu số, các quốc gia lân bang khác, Đại Việt luôn cố khẳng định uy quyền, sức mạnh của mình, buộc các nước này phải triều cống, xưng thần, vị thế của Đại Việt trong khu vực thời kỳ này rất mạnh mẽ. Đặc biệt, vào thời Lê Thánh Tông, chế độ phong kiến Đại Việt hưng thịnh nhất, Trung Quốc phải kính nể, các lân bang phải nể sợ.
Trong hoàn cảnh đó, quốc gia Đại Việt không thể chấp nhận những quốc gia ở phương Nam, phía Tây luôn chống đối lại mình, tỏ ra không thần phục mình, các nước này còn chủ trương liên hệ với phương Bắc để tấn công Đại Việt, hay thường xuyên đánh phá miền biên viễn Đại Việt. Ở đây tôi muốn nói đến Champa, một quốc gia ở phía Nam, mà sử liệu ghi nhận luôn luôn quấy rối miền biên giới, luôn nằm trong liên minh với phương Bắc để chống lại Đại Việt, đặc biệt vào thời nhà Trần, quốc gia Champa còn trở thành mối đe dọa lớn cho Đại Việt khi hết lần này đến lần khác, quân Champa đánh phá Đại Việt, thậm chí còn tiến vào vào tận kinh đô nước Đại Việt. Chưa có thời nào, Champa lại trở thành mối đe dọa lớn cho Đại Việt như thời kỳ này. Đại Việt liên tục phải đem quân chinh phạt, trừng trị Champa, hoặc khẳng định sức mạnh, uy thế của mình với Champa, như những lần hành binh năm 1069, 1402, 1471 .....
Về nội tình Champa, bước vào thế kỷ thứ X, tình trạng chiến tranh liên tục với Java giai đoạn trước còn để lại nhiều hậu quả, làm suy thoái đất nước. Sau thế kỷ thứ X, một mặt phải đối diện với người Việt với những cuộc chiến tranh liên tiếp từ những năm 980, 1044, 1096, 1227, đặc biệt những cuộc xung đột liên tục trong thế kỷ XIV, chiến sự năm 1400, 1402, 1446, 1471. Mặt khác, trong thế kỷ XI – XVII, Champa lại liên tục bị tàn phá bởi những xung đột với Chân Lạp, có lần kinh đô của họ còn bị thiêu cháy, nhiều đền tháp bị phá hủy ..... Bên cạnh đó, Champa với đặc thù của một quốc gia theo quy chế Mandala, có những tình trạng chía cắt và phân liệt. Trong đó, một tiểu quốc phía Nam là Panduranga, luôn được sử liệu, bia ký và các chuyên gia về lịch sử Champa ghi nhận rằng không bao giờ chịu thần phục chính quyền trung ương, liên tục nổi loạn, có thể nguyên nhân này cũng làm cho thực lực quốc gia này liên tục suy yếu. Một quốc gia trước rất cường thịnh, thậm chí còn độc lập trước nước Việt hàng trăm năm, nhưng nay do những nguyên nhân đó mà nội lực liên tục suy yếu, thế lực ngày càng suy mòn ( chỉ trừ một lần vùng lên dười thời Chế Bồng Nga ) , để rồi lụi tàn mãi mãi, ngày càng bị nước Đại Việt chèn ép, dần dần lấy hết lãnh thổ này đến lãnh thổ khác.
Ở trên, tôi chỉ mới lượt xét về nội tình của hai quốc gia, bây giờ đến nội tình mối quan hệ giữa hai quốc gia. Năm 1069, nhà Tống ( Trung Quốc ) đã tạo một liên minh trong đó có Champa, nhầm bao vây, cô lập Đại Việt. Nhà Tống kích động Champa không cống nạp và tiến hành tấn công biên giới hai nước, kết quả là vua Đại Việt, Lý Thánh Tông quyết định thân chinh đánh Champa để trừng phạt, kết quả là vua Champa Rudravarman III ( Chế Củ ) phải nhượng lại vùng đất cực Bắc tương đương ba châu Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh ( Quảng Bình, Bắc Quảng Trị ) của Champa cho Đại Việt.
Bước sang thời kỳ nhà Trần, sau khi cùng nhau hợp tác chống Mông – Nguyên xâm lượt thế kỷ XVIII, mối quan hệ Đại Việt – Champa trở nên thân thiện. Nhầm xây dựng mối quan hệ ngày càng tốt đẹp, thúc đẩy sự hiểu biết giữa hai quốc gia, Phật Hoàng Trần Nhân Tông sang thăm Champa, được sự đoán tiếp nồng hậu của vua Champa Simhavarman III ( Chế Mân ), Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho Đại Việt. Sau khi về nước vua Trần Anh Tông theo lời hứa của cha, gả Huyền Trân cho Chế mân, nhưng do sự phản đối của quần thần, nên Simhavarman III ( Chế Mân ) phải lấy hai châu Ô, Lý ( Nam Quảng Trị đến Bắc Quảng Nam ngày nay ) để làm quà cưới. Đây là chặng hai của quá trình Nam tiến.
Nhưng sau giai đoạn này, khi Đại Việt cướp công chúa Huyền Trân về nước, hai nước luôn mâu thuẫn, các vị vua Champa liên tục tiến hành chiến tranh với Đại Việt để thu lại vùng đất cũ đã bị mất, dù có nhiều lúc đã tấn công vào đến tận Thăng Long, làm nước Đại Việt rung chuyển, nhưng chung cuộc Champa vẩn thất bại. Đến năm 1402, Hồ Hán Thương đem quân đánh Champa, chắc là để trừng phạt một giai đoạn dài Champa đánh phá Đại Việt và trong lần đó nhà Hồ đã lấy tiếp hai vùng đất Chiêm Động, Cổ Lũy ( Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay ) .
Sang thời nhà Lê đặc biệt là thời Lê Thánh Tông, nước Đại Việt vươn lên phát triển mạnh mẽ, đó là thời kỳ cực thình nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Chính trong giai đoạn này ưu thế của Đại Việt ngày càng mạnh, một quốc gia Đại Việt đương sung sức, không bao giờ chấp nhận những quốc gia lân bang luôn bất tuân, chống đối, không chịu cống lễ, lại liên tiếp đánh phá miền biên ải nước Việt như Champa nên Thánh Tông quyết định thân chinh trừng phạt Champa, kết quả là Đại Việt nhập vùng đất từ Quảng Nam đến Bình Định ngày nay vào lãnh thổ ( trước nhà Hồ đã lấy vùng Chiêm Động, Cổ Lũy tương đương với Nam Quảng Nam đến Quảng Ngãi, nhưng khi Đại Việt bị nhà Minh đô hộ, thì Champa đã lấy lại vùng đất này ) .
Trên là lượt xét về những điều kiện, hoàn cảnh trong giai đoạn đầu của Nam tiến, bây giờ sẽ đến những điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia Đại Việt, Champa, Chân Lạp, cũng như hoàn cảnh khu vực vào thời chúa Nguyễn, rồi từ đó mới hiệu được những yếu tố tác động đến hệ thống chủ trương, đối sách để thực hiện công cuộc Nam tiến vào thời kỳ này.
Bối cảnh Đại Việt : lợi dụng lúc nhà Lê trở nên suy yếu, năm 1527 Mặc Đăng Dung cướp ngôi lập ra nhà Mạc. Sau đó không lâu, Nguyễn Kim một tướng cũ của nhà Lê, tìm người hậu duệ lập nên nhà Lê Trung Hưng ở Thanh Hóa và chống lại nhà Mạc ở Thăng Long, sử gọi giai đoạn này là thời kỳ Nam – Bắc triều. Ngay trong thời kỳ này, trong nội bộ Nam triều ( Lê Trung Hưng ) cũng bắt đầu phân liệt, trong đó sau khi Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm nắm quyền mang tiếng phò vua Lê, loại trừ thế lực của họ Nguyễn, Nguyễn Hoàng ( con của Nguyễn Kim ) dùng mưu để về phía Nam làm trấn thủ Thuận Hóa, Quảng Nam, dần dần họ Nguyễn của Nguyễn Hoàng ở phía Nam trở thành đối trọng với họ Trịnh ở phương Bắc, hình thành cục diện Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ở phía Nam một mặt Bắc cự với chúa Trịnh, các chúa Nguyễn lo mở rộng cương thổ, cường tỏa ảnh hưởng của mình xuống tận miền đất Chân Lạp, để trở thành một thế lực quan trọng, đủ sức đối trọng với chúa Nguyễn.
Vương Quốc Champa như đã nói, trong thời kỳ chúa Nguyễn Hoàng về trấn thủ Quảng Nam trở về sau thực lực ngày càng mòn mỏi, yếu kém, sức đề kháng ngày càng yếu trước chúa Nguyễn, trong các năm 1611, 1653, 1692, các chúa Nguyễn đã lần lượt tích hợp, thu nhập hết phần đất còn lại của vương quốc này vào lãnh thổ Đại Việt.
Đáng chú ý nhất thời kỳ này chính là tình hình quốc gia Chân Lạp, trong giai đoạn trước quá trình Nam tiến của Đại Việt ( ở đây tức là vương quốc Đàng Trong của chúa Nguyễn ) chỉ liên hệ trực tiếp đến Champa, nhưng giai đoạn này lại liên hệ nhiều đến Chân Lạp, thậm chí mối quan hệ này còn phức tạp hơn, khi còn liên quan đến cả Xiêm La. Hoàn cảnh Chân Lạp và mối quan hệ Đại Việt – Chân Lạp, hay Đại Việt – Chân Lạp – Xiêm La có những đặc điểm sau đây, sẽ ảnh hưởng đến việc đề ra hệ thống các chủ trương đối sách của chúa Nguyễn trong quá trình mở đất.
Từ sau thế kỷ thứ XV trở đi, sau một thời kỳ Angkor rực rỡ, Chân Lạp bước vào thời kỳ suy thoái, kinh tế kém phát triển, những mâu thuẫn xã hội vốn tìm tàng, nay càng trở nên gay gắt, xung đột phe phái, tranh chấp quyền lực liên tục nổ ra, không đủ sức phát triển kinh tế xã hội, sức đề kháng của quốc gia ngày càng yếu, ngày càng trở nên yếu thế trước các quốc gia lân bang hùng mạnh. Từ thế kỷ XVI, Chân Lạp đã trở thành nơi tranh giành phạm vi ảnh hưởng của hai bên một là Đàng Trong của các chúa Nguyễn và một bên là đế quốc Xiêm La.
Trong bối cảnh đó, trước sự lớn mạnh của Xiêm La và chủ thuyết “ Đại Thái ” của triều đình Xiêm đang ngày càng đe dọa đến quyền lợi của chúa Nguyễn ở Chân Lạp, nếu thế lực của Xiêm ngày càng lớn mạnh, khống chế Chân Lạp, đưa một lực lượng thân Xiêm lên cầm quyền ở Chân Lạp thì an ninh, chủ quyền, quyền lợi của Đàng Trong cũng đang ngày càng bị đe dọa. Trước tình hình đó, một mặt, các chúa Nguyễn phải lo ngăn chặn nguy cơ từ Xiêm thực hiện cuộc mở mang lãnh thổ, mặt khác tiếp tục thực hiện việc mở rộng đất đai về Nam Bộ. Như vậy, nổi bật lên trong bối cảnh thời bấy giờ là cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa các chúa Nguyễn với Xiêm La tại Chân Lạp, những điều này sẽ chi phối rất nhiều đến việc đưa ra các chủ trương đối sách Nam tiến, mối quan hệ tay ba này là nét đặc thù chưa từng có trong quá trình Nam tiến giai đoạn trước.
2.2 Hệ thống các chủ trương, đối sách của người Việt để thực hiện Nam tiến :
Dựa vào những yếu tố, đặc điểm, điều kiện hoàn cảnh của từng quốc gia, của khu vực, của mối quan hệ bang giao giữa Đại việt với các quốc gia lân bang ..... đã đề cập, phân tích ở trên, cũng như những nghiên cứu sử liệu, tham khảo tài liệu của các chuyên gia tôi có thể đưa ra một số những chủ trương, đối sách của các vương triều Đại Việt trong việc thực hiện “ Nam tiến ” như sau :
Thực hiện chiến tranh chinh phạt, rồi thu lấy đất đai. Ở đây, tôi không đi sau vào diễn biến chiến sự, nhưng cũng xin giới thiệu một số các cuộc chinh phạt để mở mang bờ cõi ( chủ trương này thì phần lớn sử dụng cho Champa ) . Trừ lần hành quân đầu tiên năm 1069 của Lý Thánh Tông, sau đó thì vua Rudravarman III mới dâng đất cho Đại Việt để được tự do, một lần vua Champa dâng đất để làm sính lễ cưới công chúa Đại Việt năm 1306, thì các lần hành quân năm 1402, 1471, 1611, 1653, 1692 phía Đại Việt luôn tiến hành chiến tranh chinh phạt rồi sau đó thu lấy đất của Champa ( phần diễn biến cụ thể sẽ được trình bày ở chương sau ) .
Thực hiện chiến tranh, can thiệp, dàn xếp vào nội tình của Chân Lạp : Trong giai đoạn từ những năm 20 của thế kỷ thứ XVII đến những năm 60 của thế kỷ XVIII, nội bộ quốc gia Chân Lạp liên tục nổ ra những cuộc xung đột quyền lực, những mâu thuẫn này còn bắt nguồn từ những cuộc can thiệp của Xiêm La và chúa Nguyễn. Hay nói cách khác, những xung đột giữa phe phái này phe phái nọ ở Chân Lạp có sự can thiệp của các chúa Nguyễn và Xiêm La, nó nằm trong cuộc tranh giành ảnh hưởng của Đàng Trong và Xiêm La ở Chân Lạp.
Năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần đem 3000 quân sang đánh, bắt Nặc Ông Chân, sau tha về nhưng buộc phải triều cống và tạo điều kiện cho lưu dân Việt đi sinh sống. Sau khi Ông Chân qua đời, chúa Nguyễn đã giúp một hoàng thân Chân Lạp là Batom Reachea lên ngôi, đáp lại vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và cho phép người Việt được làm chủ vùng đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa.
Năm 1672, vua Chân Lạp bị giết, con là Angcheng lên nối ngôi, sang cầu viện Xiêm La để đánh hoàng thân Angton và Angnon là những lực lương thân Việt Nam, Angnon cầu cứu Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Tần cử binh giúp Angnon, lấy đất Saigon làm Phó vương Chân Lạp.
Năm 1755, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên ( Ang Tong ) thông sứ với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1756, Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp ( nay là Tân An và Gò Công ) cho chúa Nguyễn để cầu hòa.
Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc ( Sóc Trăng ) xin chúa Nguyễn Phúc Khoát phong cho làm vua Chân Lạp. Sau đó Nặc Nhuận bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn ( Outey II ) , con Nặc Nhuận vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long ( vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc ) để tạ ơn chúa Nguyễn.
Nhà nước chủ trương, khuyến khích và tạo điều kiện cho di dân người Việt và người Hoa di cư vào vùng đất mới ở phía Nam. Ngay từ thời nhà Lý, sau khi Đại Việt sát nhập những vùng đất của Champa, các triều đại luôn có chính sách khuyến khích lưu dân vào vùng lãnh thổ mới để một mặt mở rộng địa bàn cư trú, mặt khác đưa những người dân đến vùng đất mới để khẳng định và xác lập chủ quyền với vùng đất mới.
Chúng ta biết vào thời Nhà Lý, năm 1075, Lý Thường Kiệt có đi đánh Champa, họa đồ ba vùng đất Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh đã được nhập vào lãnh thổ Đại Việt trong cuộc hành quân của Lý Thánh Tông với Champa, sau đó Lý Thường Kiệt còn được giao mộ dân binh xuống cư trú tại vùng đất này. Tình trạnh cũng diễn ra tương tự vào thời Trần, với vùng đất châu Ô, Lý năm 1306.
Sang đến thời nhà Hồ, vua nhà Hồ đã thể hiện một quyết tâm to lớn nhằm xây dựng, giữ vững chủ quyền vùng đất mới thu lấy của Champa là Chiêm Động và Cổ Lũy.
Sang đến thời Lê, sau khi Lê Thanh Tông chinh phục Champa lấy những vùng đất từ Quảng Nam đến Bình Định vua đã cho những tù binh bị lưu đầy ở Thanh Hóa, nghệ An, Hà Tĩnh di cư vào vùng đất mới biên chế cho họ theo từng địa phương.
Sang đến giai đoạn sau, đặc biệt là thời chúa Nguyễn, cho dù đại đa số di dân không phải do nhà nước tổ chức như trước mà phần đông là do tự nguyện di cư vào miền Nam, nhưng nếu như không có chủ trương tổ chức và tạo điều kiện của chúa Nguyễn thì chưa chắc đã có đông di dân đến như vậy. Một mặt, những di dân này bỏ quê hương bản quán, vốn khó khăn, bị đe dọa liên tục bởi thiên tai, đói kém. Bên cạnh đó, chúa Nguyễn cũng rất muốn thu giữ những người này, cấp đất đai, tổ chức hành chính, làng xã cho họ, để nhằm gia tăng lực lượng, sức mạnh cho cháu Nguyễn chống với họ Trịnh ở Đàng Ngoài, ngoài ra những lưu dân này còn giúp chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của quốc gia ở những vùng đất mới sáp nhập như các triều trước đã làm.
Đến thời chúa Nguyễn, một chính sách tổ chức di dân chưa có tiền lệ trước đó, được thực hiện, đó là sử dụng, tạo điều kiện cho lực lượng di dân người Hoa vào khai phá phương Nam. Nguyên là vào thế kỷ XVII nhà Minh bị lật đổ, quan lại, binh sĩ và cư dân Trung Quốc không chịu phục tùng nhà Thanh do ngoại tộc thành lập nên vượt biển vào vùng Đàng Trong với số lượng hàng ngàn người. Họ xin chúa Nguyễn giúp cho chổ ở, nhân tình hình chúa Nguyễn mới cho những di dân này đến vùng đất Đông Nam bộ ngày nay cư trú, hành động này có tác dụng to lớn trong cuộc Nam tiến bởi vì cho dù trước đó đa số người Việt đã đến đây làm ăn, sinh sống, chúa Nguyễn cũng đã lập hai trạm thu thuế ở đây, tức là vai trò của người Việt ở vùng mà ngày nay gọi là Biên Hòa, Sài Gòn đang rất lớn, nhưng trên thực tế chủ quyền khu vực này vẫn thuộc về người Chân Lạp, nên sử dụng một lực lượng rất đông người Hoa đến khai phá vùng đất này, sẽ tạo điều kiện để sau này chúa Nguyễn công khai xác lập chủ quyền về Đại việt vùng đất này một cách dễ dàng.
Như vậy, trong suốt tiến trình Nam tiến, những di dân buổi đầu đều là do nhà nước tổ chức, những di dân tự nhiên có, nhưng rất ít. Sang đến thời chúa Nguyễn, đại đa số là những di dân là tự do, số lượng những di dân này tuy không trực tiếp do chúa Nguyễn tổ chức, nhưng ít nhất phải có sự đồng thuận, tạo điều kiện của các chúa Nguyễn, thì họ mới có thể đến định cư những vùng đất mới, tổ chức thành làng xã, sản xuất phục vụ cho chính quyền, đáng chủ ý là những lưu dân người Hoa. Đây là một chủ trương, đối sách quan trọng của chính quyền, góp phần thu giữ, xác lập chủ quyền của người Việt trên các vùng đất mới.
Sử dụng con đường hôn nhân. Trong quá trình Nam tiến, có hai cuộc hôn nhân đáng chú ý đó là cuộc hôn nhân giữa Simhavarman III ( Chế Mân ) và Huyền Trân công chúa, thứ hai là hôn nhân giữa vua Chey chetta II và công nữ Ngọc Vạn.
Như vậy, trong cuộc hôn nhân đầu tiên liên quan đến vấn đề mở nước này, chúng ta thấy vua Champa Simhavarman III ( Chế Mân ) đã lấy hai châu Ô, Lý dâng cho Đại Việt để làm sính lễ cưới công chúa Đại Việt, ở đây tôi không đi vào nguyên nhân vì rõ ràng trong lần hôn nhân này phía Champa tự cầu hôn và dâng đất cho Đại Việt. Nhưng như trên đã thấy, cuộc hôn nhân này là do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khi sang Champa hứa gả công chúa cho Chế Mân. Nhưng khi sứ giả được vua Chế Mân gửi sang, thì các quan đại thần đa phần không tán đồng, vua Champa có thể phải dâng thêm hai châu Ô, Lý, thì lúc đó vua Trần Anh Tông mới quyết đem gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa. Như vậy, cuộc hôn nhân này tuy là phía Đại Việt thụ động, nhưng Đại Việt đã đồng ý vì sính lễ là hai châu Ô, Lý. Nên tôi cho rằng, cuộc hôn nhân này sở dĩ thành hiện thực cũng do một phần nào năm trong tư duy chính trị của phía Đại Việt.
Cuộc hôn nhân thứ hai, giữa công chúa Ngọc Vạn và vua Chân Lạp Chey Chetta II năm 1620, lại có điểm khác biệt, cuộc hôn nhân này không trực tiếp đem đến cho Đại Việt một phần đất đai nào. Nhưng cuộc hôn nhân này lại là tiền đề cho công cuộc mở cõi về vùng đất Nam bộ thời bây giờ. Thông qua cuộc hôn nhân này, những người Việt đầu tiên đã theo bà Ngọc Vạn sang Chân Lạp, những lưu dân người Việt đầu tiên đã đến định cư trên vùng đất Nam bộ ( lúc bấy giờ thuộc Chân Lạp ) . Sau cuộc hôn nhân này, dưới ảnh hưởng của mình, công nữ Ngọc Vạn đã cho phép, khuyên khích lưu dân người việc đến đây ngày càng đông. Nhờ cuộc hôn nhân này mà chúa Nguyễn có thể lập được các trạm thu thuế đầu tiên ở vùng Gia Định, Biên Hòa. Đây chính là những tiền đề sau này để chúa Nguyễn có thể xác lập chủ quyền ở vùng đất Đông Nam bộ. Cuộc hôn nhân này, đánh dấu một bước ngoặt lớn, một sự kiện sẽ chi phối những sự kiện khác sau này của cả công cuộc Nam tiến vĩ đại của dân tộc.
Tóm lại, quá trình Nam tiến là một quá trình đấu tranh giữa Đại Việt với các quốc gia láng giềng, các quốc gia trong khu vực. Đó là quá trình vừa kiềm chế, hòa hợp, vừa tìm cách xâm chiếm, mở rộng lãnh thổ theo quy luật lịch sử. Quá trình đó, không phải ngắn ngủi, mà là một bước tiến dài, trải qua biết bao nhiêu biến cố của thời cuộc, của lịch sử, của mối quan hệ từng quốc gia, từng khu vực. Do đó, mà ở mỗi thời kỳ, cần có những chủ trương, đối sách, khôn khéo, phù hợp, thay đổi linh hoạt để hoàn thành cuộc Nam tiến một cách trọn vẹn. Ở trên, tôi đã trình bày ra bốn chủ trương, đối sách chính để thực hiện cuộc Nam tiến : tiến hành chiến tranh ; can thiệp vào tình hình nội bộ Chân Lạp ; tổ chức và tạo điều kiện cho di dân ; con đường hôn nhân.
2.3 Những lực lượng, thành phần tham gia vào cuộc Nam tiến.
Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt không chỉ là một quá trình mà nhà nước thu giữ, xâm chiếm, sáp nhập, tuyên bố chủ quyền vùng đất mới mà có được, đó còn phải là quá trình mà người Việt ( hoặc do nhà nước tổ chức, hoặc tự nguyện ) di cư vào vùng đất mới, sinh sống, lao động. Một mặt họ đã dựng làng, mở xóm, xây dựng, mở rộng nền hành chính của quốc gia mình, mặt khác sự có mặt của những di dân trên những vùng đất mới chiếm lĩnh, mới sáp nhập này, còn khẳng định chủ quyền quốc gia, cũng như quyết tâm giữ vững vùng đất mới chiếm giữ đó. Vì vậy, nói đến Nam tiến, mà chỉ nói về lịch sử những lần thu giữ, sáp nhập, chiếm lĩnh đất đai, thiết lập chế độ hành chính ở vùng đất mới là chưa đủ. Cần phải nói đến những di dân đã vào sinh sống, làm ăn trong vùng đất mới. Tìm hiểu xem họ gồm những ai ? Vì lý do gì mà phải vào Nam ? Những cuộc di cư này là tự nguyện hay bắt buộc.
Những nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh của đất nước và quan hệ khu vực được trình bày ở phần trên không những chỉ ảnh hưởng đến việc đề ra những chủ trương, đối sách Nam tiến của chính quyền, mà còn ảnh hưởng đến thành phần, lực lượng của những người di cư vào Nam, trên đường mở cõi. Tùy từng giai đoạn, từng thời kỳ với những diều kiện, hoàn cảnh lịch sử quốc gia, khu vực khác nhau thì thành phần, lực lượng những di dân này cũng sẽ khác nhau.
Sử sách, chép khá rõ về những dòng di dân vào thời kỳ Nam tiến. Chúng tôi xin nêu ra ở đây những loại người được sử liệu đề cập phổ biến, đã tham gia vào công cuộc Nam tiến.
Những tướng lĩnh, quan chức tiên phong đi chính chiến mở cõi hoặc đi trấn thủ vùng đất mới, rồi ở lại cùng với gia đình, thân thuộc, người hầu, linh canh trên vùng đất mới. Chẳng hạn như Lương Văn Chánh ( thời Nguyễn Hoàng, người được giao đưa quân vào Phú Yên khai phá ) , Nguyễn Hữu Cảnh ( người được chúa Nguyễn giao thu lấy phần đất Bình Thuận và sau đó là kinh lược sứ Đồng nai, Gia Định ) , hay trường hợp Chủ sự Văn Phong .....
Những tướng lĩnh và quan chức không được triều đình yêu trọng, thậm chí khinh ghét, trù dập, bị đưa ra trấn giữ vùng đất mới mở. Những người này lại mang theo gia đình và gia nhân của họ với số lượng lớn đi theo. Tiêu biểu trong số này có Nguyễn Hoàng hay trường hợp một vị quan thần của ông là Đào Duy Từ ( có tài nhưng không được chúa Trịnh trọng dụng bỏ vào Nam theo chúa Nguyễn ) .
Những binh lính, cũng đồng thời là những nông bình, trong những năm tháng đầu tiên mở cõi. Những người này được chính quyền đem đến để trấn thủ, bảo vệ những vùng đất vừa tiếp quản, nhưng cũng một số họ ở lại vùng đất mới lập nghiệp. Nhà nước tổ chức cho họ vừa là quân sĩ, lúc nhàn thì tham gia sản xuất nông nghiệp.
Những người nông dân không có ruộng, ruộng ít hay ruộng đất bị chiếm đoạt bởi tình hình khủng hoảng ruộng đất ngày càng trầm trọng của phía Bắc bộ, nhất là thời kỳ Lê – Trịnh.
Những người bỏ quê hương, bản quán trên đường lánh nạn đao binh trong những thời kỳ chiến tranh, phân liệt, đặc biệt là vào thời kỳ phân tranh Nam – Bắc triều và Trịnh – Nguyễn.
Những tội đồ, bị chính quyền xử tội lưu đầy, được chính quyền sử dụng như là những nhân công cho cuộc khai thác, làm chủ những vùng đất mới chiếm được.
Những tù binh của cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn, những nông dân Đàng Ngoài bị chúa Nguyễn bắt hoặc ép vào Đàng Trong, làm gia tăng lực lượng cho chúa Nguyễn tạo sức mạnh và thực hiện công cuộc mở cõi.
Một trong những lực lượng đặc biệt, cũng cần phải kể đến trong số những lực lượng liên quan đến vấn đề Nam tiến. Thực tế, sau này lực lượng này đã đóng một vai trò rất quan trọng, cùng với lưu dân người Việt thực hiện công cuộc khai phá miền đất Nam bộ.
Tất nhiên những nhóm người, những lực lượng mà tôi lược kể ở trên, không phải là tất cả. Chắc rằng, trong những khoảng không gian, thời gian khác nhau, sẽ có những con người vì nhiều lý do khác nữa để đi vào Nam, hòa mình vào dòng chủ lưu, vào xu thế chung của cả cuộc Nam tiến. Nhưng những người được đề cập ở trên là tiêu biểu nhất, ưu tú nhất cho những con người vào Nam mở cõi thời bấy giờ.
Cho dù, những con người đó dù là lực lượng nào, thành phần nào xuất thân từ đâu, hay vì nguyên nhân gì mà di cư vào Nam. Thì chính họ, tất cả họ đã tạo nên một cuộc Nam tiến vĩ đại của dân tộc, tạo nên một bản sắc vùng mới. Những bước chân nhỏ bé của họ, những người tiên phong mở cõi, chính là một bước tiến vĩ đại của lịch sử dân tộc.
3. Tiểu kết : Nghiên cứu về Nam tiến, không chỉ là nghiên cứu về các mốc thời gian, các lãnh thổ được mở rộng, lý do mở rộng, hệ quả, công việc sau khi mở rộng lãnh thổ ..... Nghiên cứu về Nam tiến, dưới góc độ một quá trình lịch sử cũng cần phải tìm ra những nguyên nhân, những tiền đề, bối cảnh lịch sử xuất phát của cuộc Nam tiến. Tiếp đó, phân tích những chủ trương, đối sách của người Việt ( chính quyền người Việt ) , cũng như những thành phần, lực lượng tham gia vào công cuộc Nam Tiến. Ở chương này, tôi đã nghiên cứu những điều trên, đối với bài niên luận này, tôi xem những nghiên cứu ở chương này là những tiền đề quan trọng cho quá trình đi sâu vào nghiên cứu Nam tiến, dưới góc độ tiến trình lịch sử ở phần sau.
CHƯƠNG 2 : TIẾN TRÌNH NAM TIẾN CỦA DÂN TỘC
Công cuộc Nam tiến thời Lý – Trần – Hồ – Lê ( 1009 – 1527 )
Từ trước đến nay, khi tiếp cận về tiến trình Nam tiến của người Việt, chúng ta thường thấy có hai cách tiếp cận chính : Phân kỳ và phân vùng. Phân kỳ tức là phân chia theo thời đại, với cách phân kỳ, người nghiên cứu tiếp cận quá trình Nam tiến theo từng giai đoạn Lý – Trần – Hồ – Lê – Nguyễn. Cách tiếp cận phân vùng, tức là chia ra theo lãnh thổ từ quá trình sáp nhập Champa, tiếp theo là quá trình lấy đất Chân Lạp.
Tiếp cận Nam tiến, dười góc độ phân kỳ, có cái hay là làm rõ được tính xuyên suốt của tiến trình, những người nghiên cứu theo hướng này, muốn làm rõ tính chất liên tục của một diễn trình lịch sử, sự kiện mở cõi thời trước là tiền đề cho quá trình Nam tiến thời sau, sự kiện sau làm tiền đề cho cái sau nữa. Và như vậy, với cách tiếp cận này, Nam tiến được đưa vào một khung lộ trình, theo một diễn biến có thứ tự từ trước đến sau.
Nhưng với cách tiếp cận này, người nghiên cứu sẽ gặp khó khăn khi nghiên cứu về cuộc Nam tiến thời chúa Nguyễn. Vì rằng, vào thời chúa Nguyễn, Nam tiến có hai quá trình song song, một là sáp nhập và tích hợp phần lãnh thổ cuối cùng của Champa vào xứ Đàng Trong, hai là mở đất ở Nam bộ, sáp nhập phần đất của Chân Lạp. Hai quá trình này là hai quá trình đồng thời song song, với những diễn biến, cách thức, mối tương quan giữa các lực lượng ..... khác nhau. Nên, khi tiếp cận theo cột mốc 1611 mở đất Phú Yên, 1653 mở đất Khánh Hòa, 1692 mở đất Ninh Thuận, Bình Thuận ( lãnh thổ Champa ), sau đó lại nêu cột mốc 1698, Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược, mở đất Đồng Nai – Gia Định, vốn thuộc lãnh thổ của Chân Lạp, thì người nghiên cứu phải nhắc lại về những điều kiện, hoàn cảnh, tiền để trước năm 1698 dẫn đến việc Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược xứ Đồng Nai, Gia Định, như sự kiện cuộc hôn nhân giữa vua Chân Lạp Chey Chetta II và công nữ Ngọc Vạn năm 1620, việc người Việt đến vùng đất Nam bộ định cư, sự kiện chúa Nguyễn lập đồn thu thuế cho người Việt năm 1623, sự kiện chúa Nguyễn cho 3000 người Hoa lưu vong vào xứ đó khai phá đất đai năm 1679 ..... Những sự kiện này, là những sự kiện quan trọng, tiền để dẫn đến cuộc mở đất sau này ở Nam bộ. Tiếp cận theo cách phần kỳ, người nghiên cứu sẽ phải quay lại nói về những sự kiện trước ở Nam bộ dẫn đến sự kiện năm 1698, như vậy tính phân kỳ bị phá vỡ, dường như là thiếu logic.
Với cách tiếp cận phân vùng, người nghiên cứu sẽ không gặp phải trường hợp này. Nam tiến dười cách tiếp cận này, không phân chia theo thứ tự thời gian, mà chia theo vùng. Như vậy, Nam tiến được chia thành hai quá trình, một là sáp nhập nước Champa, bắt đầu từ thời Lý, trải qua đến đời Trần, Hồ, Lê và hoàn thành ở đời chúa Nguyễn. Quá trình hai, là lấy đất của Chân Lạp vào thời chúa Nguyễn, khi tiếp cận như thế này, đến lúc nghiên cứu về quá trình lấy đất Chân Lạp, người nghiên cứu sẽ lại đi theo trình tự các sự kiện đã nói ở trên là 1620, 1623, 1679 và sau đó mới đến sự kiện 1698, Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược xứ Đồng Nai, Gia Định. Như vậy, sẽ tỏ ra hợp lý và logic hơn.
Nhưng, với cách tiếp cận này, người nghiên cứu lại sẽ không đưa Nam tiến vào một khung tiến trình theo thứ tự triều đại thời gian trước sau của cả một tiến trình Nam tiến. Nam tiến là một quá trình, do đó nó cần được nghiên cứu theo thứ tự, theo một tiến trình trước đến sau, sau đến sau nữa. Sự kiện mở đất thời chúa Nguyễn không thể có nếu không có các sự kiện mở đất lần lần theo kiểu “ tầm ăn lá ” từ thời Lý, sang đến thời Trần, Hồ, Lê. Theo cách phân vùng, người nghiên cứu, khi nghiên cứu về sự sáp nhập Champa sẽ đi theo trình tự thời gian từ Lý – Trần – Hồ – Lê đến thời chúa Nguyễn, khi nghiên cứu về việc lấy đất Chân Lạp thì chỉ có nói về thời chúa Nguyễn, như vậy làm sao có thể biết được mối tương quan tương tác giữa hai quá trình song song này. Sự thực quá trình sáp nhập Champa và lấy đất Chân Lạp thời chúa Nguyễn có tính hỗ tương với nhau, rằng khi lấy xong đất Phú Yên, Khánh Hòa ( 1611, 1653 ) các chúa Nguyễn đã nghĩ ngay đến việc lấy đất Chân Lạp và thực hành nó trong suốt thời gian đó. Trong khi phần lãnh thổ cuối cùng của Champa vẫn chưa bị sáp nhập hoàn toàn thì việc người Việt, người Hoa có mặt ở Đồng Nai, Gia Định và việc chúa Nguyễn mở những trạm thu thuế ở Nam bộ đã chứng tỏ rằng từ ngày đó, việc sáp nhập vùng đất này đã nằm trong toan tính của các chúa Nguyễn.
Lãnh thổ cuối cùng của Champa đã bị thế lực của người Việt gọng kìm từ hai phía, sớm hay muộn nó cũng mất. Và khi phần lãnh thổ này cũng bị chúa Nguyễn lấy ( 1692 ) thì cũng chính là lúc mà các chúa Nguyễn có đủ những điều kiện công khai hay chính thức xác lập chủ quyền ở vùng đất Đồng Nai, Gia Định ( 1698 ) vì chính việc sáp nhập vùng đất cuối cùng của Champa sẽ đặt ranh giới cực Nam của xứ Đàng Trong liền với xứ Đồng Nai và Gia Định lúc bấy giờ vẫn thuộc Chân Lạp, việc sáp nhập vùng đất này vào xứ Đàng Trong chỉ còn là vấn đề thời gian. Và như thế, ta có quyền nói chính sự kiện năm 1692 là sự kiện trực tiếp ( các sự kiện 1620, 1623, 1679 chỉ là sự kiện gián tiếp ) dẫn đến sự kiện năm 1698 cho dù đó là hai quá trình khác nhau trên hai phân vùng khác nhau. Với cách phân vùng, mối tương hỗ của hai quá trình chỉ là mờ nhạt, nhưng kỳ thực hai quá trình Nam tiến vào thời chúa Nguyễn có mối quan hệ với nhau, sự kiện này dù ở quá trình này cũng sẽ tác động đến sự kiện kia ở quá trình kia, điều đó là rất quan trọng. Dưới góc độ phân vùng, chúng ta sẽ không hiểu rõ mối tương quan đó.
Và như đã nói, Nam tiến là một quá trình, một quá trình thì phải được phân tích, nghiên cứu dưới góc độ phân kỳ. Lịch sử không được phân kỳ và mọi phân kỳ đều chỉ là khập khiễng, nhưng khoa học về lịch sử cần phải được phân kỳ, phân kỳ giúp cho lịch sử được nhận biết, được thấu hiểu rõ ràng hơn, lôgic hơn. Trong niên luận này, tôi lựa chọn cách phân kỳ để tiếp cận Nam tiến, với cách tiếp cận này tôi biết mình sẽ vấp phải những lỗi đã nói ở trên. Nhưng đổi lại, khi nghiên cứu đến thời chúa Nguyễn, tôi sẽ chọn cách phân vùng và cố làm nổi bật tính phân kỳ, mối tương hỗ của hai quá trình song song của tiến trình Nam tiến vào thời chúa Nguyễn.
Tiện đây cũng lưu ý thêm một số thuật ngữ, quan niệm của tôi về phân kỳ lịch sử Nam tiến được sử dụng trong chương này : Nam tiến tự phát và tự giác ; Nam tiến thụ động và bị động.
Nam tiến thụ động tức là một quá trình mở rộng lãnh thổ về Nam không xuất phát từ mục đích của phe thắng cuộc, cuộc mở cõi thời Lý và thời Trần chính là Nam tiến thụ động vì nó chỉ là kết quả của một sự dâng hiến tự nguyện từ kết quả của một cuộc chiến ( 1069 ) và là quà cưới do người Champa trao cho Đại Việt, hay nói cách khác, Đại Việt vào thời Lý – Trần không có chủ động mở đất. Ngược lại, Nam tiến chủ động là cuộc mở rộng lãnh thổ về Nam mà phía Đại Việt dù bằng hình thức nào ( tiến công đánh chiếm hay can thiệp vào nội bộ nước láng giềng ) cũng đều chủ trương lấy đất của người để mở rộng lãnh thổ. Theo tôi, từ thời nhà Hồ, Nam tiến đã chuyển sang chủ động. Tôi sẽ lý giải cụ thể hơn trong từng nội dung, từng thời kỳ về hai quá trình này.
Nam tiến tự phát sang tự giác là một quá trình, từ khi Nam tiến chỉ là một ý thức đơn giản nhằm mở rộng lãnh thổ sau các cuộc chiến tranh chinh phạt, họ xem đó như là kết quả của các cuộc đi đánh nước người, cuộc mở rộng lãnh thổ thời kỳ này không phải là chủ trương đối sách được đặt lên hàng đầu, không mang nhiều ý nghĩa sống còn hay trường tồn của quốc gia hay triều đại. Chẳng hạn từ thời Lý đến tận thời Lê Sơ, Nam tiến đối với tổ tiên chúng ta từ cấp trung ương chỉ là kết quả do sự dâng nộp của các vua Champa ( thời Lý – Trần ) , cho dù từ thời Hồ và thời Lê sơ Đại Việt đã chủ động đi đánh và lấy đất Champa ( Nam tiến chủ động ) thì đó cũng chưa phải là một chính sách mang tính chất sống còn của triều đại, không nằm trong một chính sách phát triển của cả quốc gia như ở thời các chúa Nguyễn, cũng không mang tính liên tục như thời chúa Nguyễn.
Sở dĩ tôi nhận định như vậy là vì, cho dù nhà Hồ đã có chủ trương đánh Champa để mở rộng lãnh thổ nhưng sau này khi nhà Hồ bị quân Minh lật đổ, Champa đã chiếm lại vùng đất này, đến thời Lê Sơ vua Nhân Tông từng thân chinh đánh Champa nhưng lại không chiếm lấy đất Champa. Sau này 1471 , vua Lê Thánh Tông tuy có chinh phạt và lấy được đất của Champa nhưng không có mục tiêu mở rộng lãnh thổ nữa, bằng chứng là ông đã cho khắc lên núi Thạch Bi ( ranh giới với nước Champa ) rằng “ Chiêm Thành quá thử binh bại quốc vong, An Nam quá thử tướng tru binh chiết ” . Như vậy, chúng ta không thể nói Nam tiến từ Lý đến Lê là một quá trình liên tục, một chính sách, một chủ chương chiến lược liên quan đến sự sống còn trường tồn của quốc gia hay triều đại được, hay nói cách khác, Nam tiến đối với Đại Việt từ năm 1471 trở về trước có cũng được, không có cũng được, nên tôi xếp giai đoạn này ( Lý – Trần – Hồ – Lê ) là thời kỳ Nam tiến tự giác.
Nhưng tình hình của các chúa Nguyễn sau này thì lại khác, sau khi chúa tiên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận – Quảng, ông lúc nào cũng nuôi ý chí xây dựng một quốc gia tự chủ tuy vẫn mang danh nghĩa phò Lê nhưng vẫn thoát khỏi sự kiểm soát của các chúa Trịnh, ông không muốn hằng năm phải đóng thuế cho họ Trịnh nữa. Nhưng xứ Thuận – Quảng thời đó chỉ là một vùng mới thành lập, dân cư còn thưa thớt, diện tích nhỏ hẹp, vùng đất này tuy có nhiều tiềm lực phát triển nhưng so với họ Trịnh ở phương Bắc với một vùng kiểm soát rộng lớn ( đồng bằng Bắc Bộ, vùng núi Tây Bắc và Đông Bắc, vùng đồng bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh ) mà diện tích hơn ba, bốn lần xứ Thuận – Quảng cộng lại, dân cư cũng tương đương như vậy. Trong khi đó chúa Trịnh lại luôn đưa quân vào đánh vùng đất này của chúa Nguyễn, họ Trịnh luôn coi nhà Nguyễn là cái “ gai trước mắt ” cần phải tiêu diệt.
Chúa Nguyễn trong bối cảnh đó, một mặt phải Bắc cự Trịnh, bên trong không ngừng xây dựng và củng cố vùng đất Thuận – Quảng, nhưng để đủ sức lớn mạnh, trở thành một thế lực đối chọi ngang hàng với họ Trịnh, chúa Nguyễn phải Nam tiến, phải tìm thêm những vùng đất mới chưa được khai phá hết với những nguồn lợi phong phú, phải lấy dân từ Đàng Ngoài vào khai phá, những mảnh đất mà chúa Nguyễn mở rộng luôn là niềm khao khát cho một cuộc sống mới không chỉ đối với cư dân Thuận – Quảng mà còn đối với những lưu dân ngày càng đông đến từ vùng Đàng Ngoài do chúa Trịnh kiểm soát, đó chính là những điều kiện để chúa Nguyễn vươn lên sánh ngang, thậm chí còn phát triển hơn cả vương quốc của chúa Trịnh .....
Đến đây Nam tiến mới thật sự là một chính sách, một chủ trương mang tính sống còn, mang ý nghĩa chiến lược của chúa Nguyễn. Đó chính là chủ trương mà mọi ông chúa họ Nguyễn luôn phải quan tâm thực hiện song song với chính sách Bắc cự chống chúa Trịnh . Xem thế thì thấy, thời các chúa Nguyễn Nam tiến thật sự là một quá trình tự giác vậy !
1. Nam tiến thời Lý – Trần ( 1009 – 1400 ) .
Thời Lý ( 1009 – 1224 ) :
Sau năm 938, chỉ cần vượt qua dãy Hoàng Sơn người Việt đã có thể tiến xuống vùng đất Champa. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, dù biên giới của Giao Châu và Champa ( trước đó là Lâm Ấp ) liên tục biến thiên, nhưng sau khi Đại Việt lấy được nền độc lập ( 938 ) thì dãy Hoàng Sơn là một ranh giới phân chia chính thức của hai nước và hầu như không có nhiều biến động cho đến thời Lý, chính là biên giới giữa tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay.
Thời Lý, biên giới cực Nam của nước Đại Việt là châu Hoan, châu Ái, cực Bắc của Champa là địa danh được sử Việt gọi là Bồ Chính. Miền biên giới này là nơi thường xảy ra những xung đột, quấy nhiễu qua lại giữa hai quốc gia, tiếp theo xuống thứ tự là các vùng Ma Linh và Địa Lý ( 3 châu Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý tương đương với Quảng Bình và Bắc Quảng Trị ) .
Mối quan hệ giữa Đại Việt và Champa sau cuộc hành quân của Lê Đại Hành vào năm 980 tạm yên ổn. Sau khi nhà Lý được thành lập, mối quan hệ này trở nên vô cùng phức tạp, có nhiều lúc hai bên giao hiếu, lại có nhiều lúc hai bên giao tranh, đặc biệt nhất là cuộc giao tranh vào năm 1044, tức là thời Lý Thái Tông.
Dấu ấn đầu tiên trong tiến trình Nam tiến được ghi nhận chính là năm 1069 khi vua Lý Thánh Tông thân chinh Champa, bắt sống vua Champa mà bia ký Chăm gọi là Rudravarman III , sử Việt gọi là Chế Củ, buộc vua Champa phải cắt ba châu Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý để sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt.
Về nguyên nhân cuộc hành quân này, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép : “ ..... Chiêm thành dâng voi trắng, sau lại quấy nhiễu biên giới ..... ” ( 1068 ) có lẽ đó là nguyên nhân chăng ? Nhưng sách Việt Sử Lược lại không thấy chép gì về sự kiện tiến cống voi trắng này, trong cuốn sách " Lý Thường Kiệt : lịch sử bang giao và tông giáo " , tác giả Hoàng Xuân Hãn đặt nghi vấn về nguyên nhân được sách Toàn Thư nêu ra, tác giả dẫn chứng trên bia ký ở chùa Linh Xứng nói rõ : “ ..... Kịp đến khi nước Phật Thệ ( tức Champa ) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ kéo sang đánh ..... ” , ngoài ra , bằng chứng thứ hai là sau khi khải hoàn, vua Lý gửi thư cho vua Tống nói rằng : “ ..... Chiêm Thành đã lâu không tiến cống, tôi tự đem quân sang đánh ..... ” .
Theo Việt Sử Lược, sau khi chiến thắng, vua đãi yến tiệc, cho kiểm kê lại số nhà dân và tháng 5 thì lên đường về nước đem theo vua Rudravarman III . Khi khải hoàn trở về , vua Rudravarman III xin dâng ba châu Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh cho Đại Việt, vua Lý Thánh Tông tiếp nhận và tha cho vua Champa trở về.
Kể từ lúc đó, 3 khu vực Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh ( tức là Quảng Bình và phần Bắc Quảng Trị ) chính thức thuộc về Champa, sách sử còn ghi nhận những nỗ lực đem quân lấy lại vùng đất này của Champa ( 1075 ) . Năm đó, vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đi đánh Champa, không biết diễn biến thế nào, chỉ biết là không thắng được và Lý Thường Kiệt cho vẽ địa đồ 3 châu. Địa Lý đổi thành Lâm Bình, Ma Linh đổi thành Minh Linh và ra chiếu chiêu dụ dân đến đây sinh sống. Theo Phan Khoang, chiếu chiêu mộ dân này là một văn kiện quan trọng trong lịch sử nước ta ; ấy là bước đầu của cuộc Nam tiến mà dân tộc ta theo đuổi trong 6, 7 thế kỷ sau.
Đến ngày hôm nay, chúng ta không có nhiều tài liệu để nói về công cuộc khẩn hoang ở Quảng Bình và Bắc Quảng Trị của cư dân Việt khi mới vào đây ngoài gia phả riêng biệt của từng dòng họ hay những tài liệu địa chí Quảng Bình ..... Theo những tài liệu này, ngay sau chiếu chiêu mộ dân đến mở đất, khai phá vùng đất mới, nhiều người từ Bắc, đa số là Nghệ An, đi vào và bắt đầu khai khẩn vùng đất mới. Những người này thường cùng một dòng họ, rồi tụ tập thành một làng, trong sách Ô Châu Cận Lục, Dương Văn An khi liệt kê các làng ở Lâm Bình, Minh Linh có nói đến các làng Phan Xá, Ngô Xá ..... nhiều học giả nghiên cứu về Quảng Bình cho rằng các làng này có thể là do các dòng họ Phan hay Ngô lập ra.
Nhưng ở châu Bồ Chính lại không có những làng mang tên họ như thế, nhà nghiên cứu địa lý lịch sử tỉnh Quảng Bình là Cadiere đưa ra giả thuyết vào thời kỳ này di dân khi vào nam không ở châu Bồ Chính mà đi thẳng vào phía Nam sông Gianh để lập nghiệp, sau này vào thời nhà Lê thì vua Lê Thánh Tông mới cho dân đến Bồ Chính lập làng. Giả thuyết được học giả người Pháp này đưa ra rất có cơ sở vì theo nghiên cứu của tôi, thứ nhất vùng đất phía Nam sông Gianh, tức là châu Lâm Bình và Minh Linh, đất đai phì nhiêu hơn khu vực Bồ Chính ở phía Bắc, thứ hai, cũng trong một khu vực tỉnh Quảng Bình, bản sắc và tiếng nói của hai vùng Bắc và Nam sông Gianh rất khác nhau trong khi bản sắc và tiếng nói vùng Nam sông Gianh ( thuộc địa phận Quảng Bình ) lại có nhiều tương đồng với vùng Bắc Quảng Trị, tức là châu Minh Linh thời Lý .
Như vậy, đến hết thời Lý, lãnh thổ Đại Việt đã mở rộng được thêm 3 châu Bồ Chính, Lâm Bình, Minh Linh ( nay là Quảng Bình và Bắc Quảng Trị ) , lấy Cửa Việt ngày nay làm ranh giới hai nước. Đây là cột mốc đầu tiên trong lộ trình Nam Tiến của dân tộc, Nam tiến thời kỳ này chỉ là một bước đệm, các vua Đại Việt không chủ trương lấy đất mà chỉ là do vua Champa đổi lấy để trở về nước, đây là Nam tiến một cách thụ động. Cuộc Nam tiến bước đầu này hoàn toàn là giai đoạn Tự phát.
Thời Trần ( 1225 – 1299 ) :
Sang thời nhà Trần ( 1225 – 1400 ) , mối quan hệ Đại Việt – Champa đầy biến động, lúc hòa thuận, lúc lại đầy sóng gió. Những biến động trên đều xoay quanh một sự kiện trung tâm là cuộc hôn nhân giữa vua Champa là Simhavarman III mà sử Việt gọi là Chế Mân và công chúa nhà Trần, Huyền Trân. Sự kiện này đưa đến việc Champa nhượng lại hai vùng đất mà sử Việt gọi là Châu Ô, Lý ( nay là Nam Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, một phần Bắc Quảng Nam ) .
Trước khi đi vào vấn đề Đại Việt thu lấy 2 vùng đất mới này, tôi xin khái lược về mối quan hệ 2 nước thời Trần đến trước cuộc hôn nhân lịch sử năm 1306. Từ khi Trần Thái Tông lên ngôi, Champa có cho sứ giả sang 2 lần nhưng thỉnh thoảng vẫn không từ bỏ ý định lấy lại 3 châu đã mất thời Lý, thường xuyên có những xung đột biên giới nhỏ giữa hai nước. Năm 1252 , sau khi vua Thái Tông thân chinh đánh Champa, vùng biên giới mới tạm ổn một thời gian, hai nước lại giao hảo.
Sau đó cả hai nước phải cùng lúc đối mặt với thảm họa xâm lăng từ đế quốc Mông – Nguyên, trong cuộc chiến này hai quốc gia đã hợp tác hiệu quả cùng nhau chống lại kẻ thù chung, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sau chiến tranh, quan hệ giữa hai nước trở nên tốt đẹp nhất, thường xuyên giao hảo. Vua Simhavarman III và Trần Nhân Tông luôn cố vun đắp cho mối bang giao hòa hảo đời đời giữa hai nước. Kết quả là trong chuyến du hành đến Champa, nhận được sự tiếp đãi nồng hậu của Champa, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa.
Nhưng cả vua Champa và thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đều không ngờ cuộc hôn nhân này lại nhận một sự phản ứng mạnh mẽ của các quan đại thần, vốn là những nhà nho thủ cựu, họ so sánh việc này như là việc “ Vương Chiêu Quân cống Hồ ” , họ phản đối việc đưa công chúa “ cành vàng lá ngọc ” về làm dâu nước man rợ .
Trước sự phản đối của các quan lại triều Trần, vua Simhavarman III vì mưu cầu lợi ích cho quốc gian nhằm nghĩ đến mối tình thâm hai nước hay vì một lý do nào khác đã chấp nhận nhượng lại cho Đại Việt hai châu Ô, Lý, xem như đây là lễ vật cầu hôn công chúa. Đến lúc này, vua quan nhà Trần mới thống nhất chấp nhận. Năm 1306, Công Chúa Huyền Trân lên đường về đến Champa.
Về sự kiện này thì đến hôm nay hậu duệ người Champa vẫn còn ca thán mãi, họ rất hận vua Chế Mân đã đem giang sơn đổi lấy mỹ nữ. Còn về phần Đại Việt , họ coi sự kiện công chúa về “ làm dâu Chiêm quốc ” có một ý nghĩa to lớn trong công cuộc Nam tiến, theo bước chân bà đã có hàng trăm, hàng ngàn người lên đường vào Nam, khai phá vùng đất mới.
Nhưng chỉ được một năm thì vua Champa băng hà, theo phong tục, công chúa phải lên giàn thiêu cùng chồng, vua Anh Tông cho người mượn tiếng sang chia buồn, dùng kế cướp công chúa Huyền Trân về nước ( đó là chép theo sử cũ, còn xoay quanh sự kiện gần đây có rất nhiều ý kiến tranh cãi, phê bình ) . Kể từ đó mối quan hệ Đại Việt – Champa liên tục tiếp nối bằng các cuộc xung đột chiến tranh, mỗi đời vua Champa lên ngôi từ Chế Chí đến Chế Bồng Nga đều nuôi chí báo thù, lấy lại đất cũ, chiến tranh nổ ra ác liệt nhất giữa hai nước là vào thời Chế Bồng Nga, nhiều lần vua Champa đã tiến vào tận kinh thành Thăng Long, nhưng cuối cùng Chế Bồng Nga lại bị chết trận, từ đó sức lực của Champa dần yếu đi trước Đại Việt.
Trở lại vấn đề Nam tiến, sau khi dâng hai châu Ô, Lý cho Đại Việt, sách Toàn Thư chép : “ Mùa xuân, tháng giêng, đổi hai châu Ô, lý thành châu Thuận và châu Hoá ..... ”
Thuận châu lúc bấy giờ tương đương với khu vực Nam Quảng Trị từ Cửa Việt. Còn về Hóa châu thì cò có nhiều nghi vấn, phần lớn các nghiên cứu có đề cập đến sự kiện này đều nhận định chung rằng Hóa châu xưa tương đương với tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu thường hiểu nhầm rằng dãy Bạch Mã hay đèo Hải Vân là biên giới chính thức của hai nước sau năm 1306 . Theo tôi, nhận định trên không chính xác.
Có thể khẳng định đến năm 1306, ranh giới Đại Việt và Champa không chỉ đến đèo Hải Vân mà còn đến tận sông Thu Bồn. Tức là sau năm 1306 , lãnh thổ Đại Việt đã tiến xuống, mở rộng thêm không chỉ vùng đất Nam Quảng Trị từ Cửa Việt và tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay mà còn cả khu vực Đà Nẵng và các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An của Quảng Nam ( từ Nam đèo Hải Vân đến Bắc sông Thu Bồn ).
Về phía Champa, họ đã đánh mất một địa bàn phòng thủ chiến lược của mình, đánh mất đi một phần của tiểu quốc Amaravati và hải cảng phòng thủ chiến lược của khu vực này, đồng thời đánh mất luôn khu vực đồng bằng quanh con sông Hương. Trước là Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý, nay là châu Thuận, châu Hóa, cả hai phần đất trên tương đương cương vực vương quốc Lâm Ấp ngày xưa, nay đã mất vào tay Đại Việt.
Như vậy, cho đến lúc này, dù lãnh thổ đã được mở rộng nhưng thực tế những phần đất này đều hoặc là do vua Champa cắt để cầu hòa, hoặc là để cầu hôn, nên vì thế người ta không thể kết tội cho Đại Việt có ý định xâm chiếm đất đai của Champa được, do đó quá trình Nam tiến lúc này của Đại Việt chỉ là thụ động chứ chưa phải là chủ động, quá trình lưu dân vào khai khẩn, đất đai mới mở rộng chỉ là tự phát chứ chưa chuyển sang giai đoạn tự giác.
2. Nam tiến thời Hồ – Lê ( 1400 – 1527 ) .
Thời Hồ ( 1400 – 1407 ) :
Sau những năm chiến sự ác liệt giữa hai nước Champa và Đại Việt, thực lực của cả hai quốc gia đều suy yếu. Ở phía Bắc, nhà Trần ngày càng rơi vào khủng hoảng trầm trọng, lợi dụng tình hình đó, năm 1400 Hồ Qúy Lý cướp ngôi vua Trần và lập ra nhà Hồ, lấy quốc hiệu là Đại Ngu. Ở phía Nam, Champa sau khi Chế Bồng Nga bị tử nạn, mất đi một thủ lĩnh quân sự anh hùng, vương quốc nhanh chóng rơi vào suy yếu nhanh chóng.
Sau khi lên ngôi, sử liệu cho biết Hồ Quý Ly có sai quân sang đánh Champa vào năm 1401 nhân lúc vua Champa là Simhavarman ( sử Việt gọi là La Khải ) mất, nhường ngôi lại cho con là Virabhadravarman ( sử Việt gọi là Ba Đích Lai ) nhưng cuộc hành quân này thất bại, về số lượng quân tham gia, sách Toàn Thư cho biết có khoảng 15 vạn quân tham gia trong trận này .
Nhưng quan trọng nhất vẫn là cuộc hành quân sau đó vào tháng 7 năm 1402. Trong trận này Hồ Hán Thương ( ông vua kế vị Hồ Qúy Ly, lúc bấy giờ Hồ Qúy Ly là Thái Thượng Hoàng ) cho Đỗ Mãn làm Đô tướng ; Điện nội phán thủ Nguyễn Vị và An phủ sứ lộ Đông Đô Nguyễn Bằng Cử làm chiêu dụ sứ, đi đánh Champa.
Đến đây lãnh thổ Đại Việt mở đến lộ Thăng Hoa, tức là Chiêm Động và Cổ Lũy. Nhà Hồ chia Chiêm Động thành hai châu Thăng và Hoa, tương đương với Nam Quảng Nam ngày nay. Cổ Lũy chia thành hai châu Tư, Nghĩa tương đương với phần đất Quảng Ngãi ngày nay. Nhà Hồ còn cho một người Việt là Nguyễn Cảnh Chân đứng đầu vùng đất mới này, còn cho Chế Ma Nô Đà Nan, một người Champa, làm quan địa phương để vỗ về dân cư bản địa còn ở đây.
Xem những gì sử liệu ghi lại ta thấy, ngay sau khi thu được vùng đất mới, nhà Hồ đã cho dân đến khai khẩn vùng đất mới, nhưng chi tiết về việc biên chế dân thành quân ngũ hay cho di dân thích cánh tay vào làm dấu hiệu cho thấy, cuộc di dân này là do triều đình tổ chức và nó mang tính cưỡng bức nhiều hơn là tự nguyện, khi đến đây những di dân này phải sống như những tù nhân, bị quản lý theo biên chế quân sự, một cuộc di dân mà trước chưa có sau cũng không có. Cuộc di dân này thể hiện tham vọng mở cõi, nỗ lực ổn định trấn thủ vùng đất mới của triều đình nhà Hồ.
Bên cạnh đó, có nhiều cứ liệu cho chúng ta thấy rằng ở giai đoạn mới đầu này, cho đến trước khi Lê Thánh Tông đánh Champa năm 1471 thì đa số dân cư ở đây vẫn là cư dân bản địa. Bằng chứng là nhà Hồ không xua đuổi cư dân bản địa mà vẫn cho người Champa tự do muốn đi thì đi muốn ở thì ở, thậm chí những người ở lại còn được bổ làm quan. Hơn nữa, sự kiện những đoàn di dân đem theo vợ con bị bão chết đuối gần hết và sau này không thấy sử liệu nào nói về các đợt di dân lớn nào nữa cho thấy di dân người Việt vào đất này so với người Champa rất ít. Như vậy, có thể kết luận trong giai đoạn đầu lấy được phần đất mới ở lộ Thăng Hoa thì người Champa ở lại đây là chính, người Việt thì “ ở lẫn ” với người Champa và dần dần theo phong tục của họ .
Nhưng lần mở cõi này lại gặp những biến cố khó lường, trong khi đang thực hiện chính sách mở cõi của mình thì nhà Hồ bị nhà Minh bên Trung Quốc đem quân sang xâm lược, chung cuộc họ Hồ phải cáo chung, nước Việt bị nhà Minh đô hộ suốt 20 năm ( 1407 – 1427 ). Nhân đó Champa cho quân chiếm lấy vùng đất mà nhà Hồ đã lấy vào năm 1402, cho dù nhà Minh có ghi vùng đất này vào sổ bộ của mình nhưng trên thực tế không kiểm soát nó. Do đó từ năm 1407 đến năm 1471 , vùng đất lộ Thăng Hoa này lại trở về với Champa.
Dẫu vậy, chúng ta cũng không thể không ghi nhận những nỗ lực mở rộng lãnh thổ về Nam và công lao trong việc thực hiện bước đầu chủ động Nam tiến của nhà Hồ, công lao đưa những lưu dân đầu tiên ( tuy không nhiều ) vào vùng đất mới mở này. Chính từ đây, cuộc Nam tiến của dân tộc Việt đã chuyển sang một bước tiến lớn từ thụ động sang chủ động.
Thời Lê Sơ ( 1427 – 1527 ) :
Sau một thời gian gần hai mươi năm bị quân Minh đô hộ, năm 1427 cuộc khởi nghĩa trường kỳ chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn và nhân dân Đại Việt do Lê Lợi lãnh đạo giành được thắng lợi, năm sau Lê Lợi lên ngôi, thụy sau này là Lê Thái Tổ, khai sinh nhà Lê Sơ, đặt tên nước là Đại Việt.
Lúc đầu vào thời Lê Thái Tổ, quan hệ hai nước Đại Việt và Champa tốt đẹp, hai nước thường thông sứ. Nhưng từ thời Thái Tông, Nhân Tông trở đi, hai nước thường xuyên có những xung đột, quan trọng nhất là năm 1446 khi Nhân Tông đem quân đánh Champa.
Về phía Champa, Virabhadravarman ( Ba Đích Lai ) băng hà năm 1441, Ma Ha Bì Cái lên thay, ông vua này có chính sách cướng rắn với Đại Việt. Trong cuộc hành quân năm 1446 của Đại Việt, ông bị bắt, Champa rơi vào những cuộc biến động liên tục, lần lượt Ma Ha Quý Lai, Ma Ha Quý Do, Trà Duyệt, Trà Toàn lên làm vua Champa .
Dưới thời Lê Thánh Tông ( Đại Việt ) , hai nước Đại Việt và Champa lại căng thẳng. Năm 1471, vua Đại Việt lấy lý do Champa không chịu cống và còn đưa sang quấy nhiễu miền biên giới hai nước, đích thân vua Lê Thánh Tông viết cuốn Bình Chiêm sách và thân chinh đem quân sang đánh Champa.
Cùng năm đó, sau khi thắng lợi về đến kinh thành, vua Thánh Tông thu lấy phần đất từ Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi ( tức là vùng Chiêm Động và Cổ Lũy trước kia, sau năm 1402 là lộ Thăng Hoa thuộc nhà Hồ, 1407 bị Champa chiếm lại ) về đến hết tỉnh Bình Định ngày nay nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Vùng đất còn lại ở phía Nam được vua Thánh Tông chia làm 3 vùng : một vùng lãnh thổ còn lại của người Champa do một hàng tướng người Chăm là Bồ Trì Trì nắm giữ ở tại Panduranga ( nay là Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận ) , một vùng là nước Hoa Anh do Hoa Anh vương đứng đầu, tiểu quốc này nằm giữa vùng đất từ đèo Cù Mông đến đèo Cả tương đương với Phú Yên ngày nay ( đây được xem là vùng đệm giữa Đại Việt ở phía Bắc và Champa ở phía Nam ) , và vùng thứ ba là nước Nam Bàn ở phía Tây nước Hoa Anh ( nay là Bắc Tây Nguyên ) do hai tiểu vương mà sử Việt gọi là Thủy Xá và Hỏa Xá đứng đầu .
Vùng đất thừa tuyên Quảng Nam mới lập ra đã nhanh chóng hấp dẫn những di dân xa xôi ở Hà Tĩnh, Nghệ An đổ ra. Từ sau năm 1471 , những dòng người liên tục đều đặn đã vào Nam vì những khó khăn đói kém ở phía Bắc. Những tài liệu ghi chép về những đợt di dân buổi đầu này không nhiều, nhưng nếu xem xét từ gia phả các dòng họ ở Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định chúng ta có thể nhận ra được những minh chứng cho thấy những dấu chân Việt vào đây khai hoang lập làng như thế nào.
Ngoài ra, trong những lưu dân đầu tiên vào đây còn có những tù nhân bị kết án lưu đầy. Sau khi lấy được vùng đất từ Thăng Hoa trở vào, năm 1474 vua Lê Thành Tông ra sắc chỉ tù xử tội lưu đầy thì xung về phủ Thăng Hoa, phủ Tư Nghĩa, phủ Hoài Nhân của thừa tuyên Quảng Nam và đưa vào biên chế quản lý hẳn hoi .
Khi vừa mới chiếm được vùng đất mới này, vua Thánh Tông phong cho một người Chiêm là Ba Thái làm Đồng Tri phủ, Đa Thủy làm Thiêm Tri phủ và Đổ Tử Quy làm Đồng Tri châu, coi và quản lý vủng đất Chiêm Động ( của Champa trước kia ) , lại giao cho Lê Ỳ Đà làm Tri châu Cổ Lũy ( của Champa trước kia ) . Vua còn dặn : “ Nếu người Chiêm không theo, cho chém trước rồi sẽ tâu sau ” . Xem thế thì giai đoạn đầu, công việc cai quản vùng đất mới rất khó khăn vì phần đông người Champa bấy giờ chưa phục.
Sau này vua Thánh Tông mới đem vùng đất mới đặt làm thừa tuyên Quảng Nam gồm 3 phủ 9 huyện đã nói ở trên. Ở mỗi thừa tuyên đặt 3 ty : Đô ty có chức Tổng binh và Phó Tổng binh coi việc binh chính ; Thừa Ty có chức Thừa chánh sứ và Thừa phó sứ coi việc hộ tịch ; Hiến ty có Hiến sáp sứ và Hiến sáp phó sứ trông coi việc khám đoán, xét hỏi, kiểm soát ..... Ở dưới đạo là Phủ do Tri phủ dứng đầu, ở dưới là huyện có Tri huyện.
Cột mốc năm 1471 là một cột mốc quan trọng trong lộ trình Nam tiến của dân tộc Việt, sau lần này họ lấy lại được vùng đất lộ Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa ( mà họ Hồ vốn trước đã lấy nhưng sau lại bị người Champa chiếm lại ) , còn lấy thêm được một vùng đất ở phía Nam đến tận đèo Cù Mông ( Bình Định ) . Cuộc Nam tiến lần này của người Việt là quan trọng vì nó là vĩnh viễn, những di dân được yên ổn làm ăn, không phải lo sợ phía Champa đánh phá như ở Thuận Hóa trước nữa ; cuộc tiến xuống lần này còn quan trọng vì nó đã đem xuống vùng đất mới này những cư dân mà con cháu họ sau này chính là công dân chính thức của xứ Đàng Trong ( sau khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận – Quảng ) . Vả lại, chính đa số những người Việt tại đây sẽ là lực lượng chính trong đợt Nam tiến tiếp theo vào thời chúa Nguyễn sau này, đi xuống vùng đất còn lại của Champa và vùng Thủy Chân lạp.
Về phía Champa, đến đây vương quốc này không chỉ mất đi phần còn lại của tiểu quốc Amaravati mà còn mất cả vùng Vijaya ( Đồ Bàn ). Đây là những vùng đất đai rộng và trù phú, nơi có những đền tháp thiêng liêng của dân tộc, nơi có những cung điện, đền đài từng chứng kiến biết bao nhiêu vàng son của dân tộc này, nay không còn nữa. Đó là một dấu ấn quan trọng trong lịch sử Champa, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Champa đánh giá sự kiện này chính là cột mốc đánh dấu sự suy tàn của vương quốc này và không lâu sau sẽ dẫn đến sự cáo chung vĩnh viễn của nó.
Cuộc Nam tiến dưới thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong ( 1558 – 1757 ) .
1. Nguyễn Hoàng vào Nam trấn thủ Thuận – Quảng.
Lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử cuộc Nam tiến nói riêng xem việc Nguyễn Hoàng vào Nam năm 1558 là một cột mốc lịch sử rất quan trọng. Đối với quá trình Nam tiến, sự kiện Nguyễn Hoàng vào Nam đã đưa đẩy quá trình này phát triển rất nhanh về thời gian lẫn không gian lãnh thổ mở rộng.
Dười thời chúa Nguyễn, số lượng những di dân vào Nam ngày càng đông, những vùng đất trải rộng từ Thuận Hóa – Quảng Nam trước kia vốn đã thuộc Đại Việt nhưng số lượng những lưu dân đến đây vẫn chưa nhiều, người Việt sống chung lẫn với người Chăm. Vùng đất Thuận – Quảng ngày đó đến khi chúa Nguyễn đến vẫn chỉ là một vùng đất hoang sơ ác hiểm, sau khi chúa Nguyễn vào trấn thủ, cư dân này mới đông lên nhanh chóng, cuộc sống mới trở nên phồn thịnh.
Cũng từ khi chúa Nguyễn vào Nam, các đời nối tiếp nhau mà mở đất về phương Nam, không chỉ là mưu lợi cho riêng sự hưng vong của chính quyền gia tộc mà còn là những vùng đất mà nhân dân bao đời khát vọng, dựng xây một cuộc sống ấm no, sung túc với biết bao hy vọng. Người dân Việt đã từ bỏ những vùng quê nghèo nàn, chiến loạn, khó khăn để vào phương Nam, miền đất trước kia là của người nhưng nay cũng đã ghi dấu biết bao dấu chân của người Việt, mảnh đất đó cũng đã thấm đẫm nhưng giọt mồ hôi của biết bao người Việt di dân. Vùng đất mới ( ở phía Nam ) tự bao giờ là “ vùng đất giành cho những người không có quyền sống ở vùng đất cũ ” ( ý kiến của Huỳnh Lứa ) , Thuận – Quảng bấy giờ đâu chỉ là đất “ dung thân muôn đời ” của một dòng họ chúa Nguyễn mà còn là của lớp lớp thế hệ người Việt di cư.
Kể từ nay, cuộc Nam tiến của dân tộc Việt không chỉ dừng lại ở một sách lược tiến hành chiến tranh mở rộng lãnh thổ ( cấp nhà nước ) nhằm thị uy sức mạnh, khẳng định vị trí quốc gia trong khu vực mà đã trở thành một đối sách quan trọng liên quan đến sự hưng vong của dòng họ chúa Nguyễn và chính thể mà họ đã lập nên. Cuộc Nam tiến ( ở cấp độ nhân dân ) từ nay không chỉ dừng lại ở những cuộc di dân lẻ tẻ, cưỡng bách, thiếu tổ chức chặt chẽ mà trở thành những cuộc di dân khổng lồ, lớn về quy mô tổ chức và số lượng. Giai đoạn này tuy ngắn hơn nhiều giai đoạn trước nhưng đáng để lịch sử ghi nhận nhiều hơn với vai trò mở cõi. Cuộc Nam tiến, thật vậy, đã bước từ giai đoạn tự giác sang tự phát.
2. Quá trình tích hợp và sát nhập phần đất còn lại của Champa vào lãnh thổ Đàng Trong.
* Nguyễn Hoàng và việc mở đất Phú Yên.
Vùng đất Phú Yên ngày nay, xưa là Ayaru, có lúc thuộc Kauthara của vương quốc Champa, vùng đất này ở phía Nam đèo Cù Mông, có ranh giới phía Nam là đèo Cả. Đến trước khi Nguyễn Hoàng vào Nam, vùng đất này vẫn thuộc Champa, mãi cho đến năm 1611, vùng đất này mới chính thức thuộc về Đàng Trong. Trước đó hơn mười năm và còn lâu hơn thế nữa, những cư dân người Việt đầu tiên đã đến đây do công cuộc tổ chức di dân của chúa Nguyễn do Lương Văn Chánh phụ trách.
Vào thời điểm những năm 90 của thế kỷ XVII , chúa Nguyễn Hoàng tuy ở Thăng Long nhưng vẫn rất quan tâm đến vùng đất phương Nam. Lúc bấy giờ Lương Văn Chánh hiện là tri huyện Tuy Viễn đã nhận thấy được tài năng của con người này. Chúa Nguyễn Hoàng, với tư cách tổng trấn Thuận – Quảng, ra sắc chỉ ngày mồng 6 tháng 2 năm 1597, ra lệnh cho Lương Văn Chánh đem dân vào khai khẩn vùng đất tiếp giáp ở phía Nam huyện Tuy Viễn, bên kia đèo Cù Mông, tức là tỉnh Phú Yên ngày nay.
Như vậy, trước năm 1611, khoảng 14 năm, những lưu dân đầu tiên đã được tổ chức di dân vào vùng đất Phú Yên để khai phá lập nên xóm làng. Từ huyện Tuy Viễn sang vùng đất núi phải băng qua một dãy núi chảy dài theo hướng Tây – Đông đổ ra biển với nhiều đỉnh cao 600 – 700 m , Cù Mông là địa danh đầu tiên được nhắc đến trong tờ công lệnh trên cũng là địa điểm thứ nhất của người Việt khi vào đấy, Cù Mông ngày xưa chính là toàn bộ thị xã Sông Cầu và huyện Đồng Xuân ngày nay.
Điểm định cư thứ hai là Bà Đài, sau là Xuân Đài, có thể là huyện Tuy An ngày nay. Bà Đài rộng hơn Cù Mông, có sông Cái chảy qua, diện tích lưu vực gần 200 km vuông, sông về đến hạ lưu chia ra làm năm nhánh, bồi tụ phù sa cho những cánh đồng nhỏ hẹp nhưng luôn màu mỡ. Bà Đài cũng là vùng trù phú nhất vùng.
Bà Diễn, vùng đất này khô cằn hơn Bà Đài nhưng rộng lớn, chim bay mỏi cánh, dưới sông cá lội, lại có con sông Đà Rằng chảy qua bồi đắp quanh vùng tạo nên một vùng đồng bằng có vựa lúa lớn nhất miền Trung. Sông đến địa phận Phú Yên làm ranh giới tự nhiên giữa huyện Sơn Hòa và huyện Sông Hinh, giữa Sơn Hòa và Tây Hòa, giữa Tây Hòa và Phú Hòa, giữa Tây Hòa và thành phố Tuy Hòa rồi đổ ra biển Đông ở cửa biển Đà Diễn.
Điểm định cư thứ tứ, theo công lệnh chính là Bà Niễu hay Bà Nông, là vùng châu thổ con sông Bàn Thạch mà ở hạ lưu chảy qua huyện Đông Hòa gọi là sông Đà Nông. Đây là vùng đất cuối cùng trên lộ trình di dân của công lệnh, ở phía Nam nó giáp đèo Cả, cư dân ở đây thời đó nhìn về phía Nam sẽ thấy ngọn núi Đá Bi linh thiên cao vời vợi , còn để lại truyền thuyết khi xưa về việc vua Lê Thánh Tông mở cõi.
Cho dù vậy, có thể vùng đất này chỉ là một bước đệm, lãnh thổ trên vẫn thuộc quyền kiểm soát của Champa, có thể lúc này những cư dân đến đây chỉ chiếm số lượng không lớn trong những người dân khai phá Phú yên. Vì vậy, có thể lúc này, người Việt khi đến đây sẽ còn phải đối mặt với mối đe dọa từ phía Champa, họ chỉ là những người dân đến khai phá vùng đất mới trước rồi sau đó nhà nước mới theo sau. Vào năm 1611 nhà nước đó đã đến như một quy luật nổi bật quá trình Nam tiến thời kỳ chúa Nguyễn “ di dân đến trước, nhà nước theo sau ” .
Nhiều nhà nghiên cứu khi đề cập đến quá trình Nam tiến giai đoạn này thường đánh giá rất cao chiến thắng năm 1611, xem sự kiện này như là một dấu ấn quan trọng trong việc mở cõi về đất Phú Yên. Tác giả Phan Khoang khi ghi nhận về việc Lương Văn Chánh đưa lưu dân vào khai phá đất Phú Yên sau năm 1611, tức là tác giả ( không biết vì lý do gì ? Vô tình hay cố ý ) không đề cập đến sự kiện năm 1597 , thực tế tác giả đã ghi nhận sai tiến trình rằng Lương Văn Chánh đã cho dân vào khai phá Phú Yên trước chiến sự 1611 , chiến sự năm 1611 chỉ là việc chúa Nguyễn chính thức sáp nhập vào Đại Việt mà thôi ( Đàng Trong vẫn thuộc Đại Việt, ở đây Đại Việt được tôi xem như Đàng Trong ) còn lưu dân Việt vào khai phá, dựng làng ở đất Phú Yên đã diễn ra trước đó rồi ( như đã nêu trên ) .
Trên thực tế, ngay cả một số tài liệu chính thống của nhà Nguyễn như Đại Nam Thực Lực, Đại Nam Nhất Thống Chí cũng không hề ghi chép về sự kiện này, hệ quả là một số các tác giả sau này, khi biên soạn các tác phẩm có đến cập sự kiện này, hoặc liên quan đến sự kiện 1611, thường rất ít chú ý đến sự kiện năm 1597 khi Lương Văn Chánh đưa di dân xuống các khu định cư ở phía Nam đèo Cù Mông nếu như không muốn nói là hầu hết tài liệu đều không đề cập. Nhưng theo tôi, sự kiện năm 1597, mới là dấu ấn quan trọng, đáng ghi nhận trong lộ trình Nam tiến. Sự kiện năm 1611, chỉ là hệ quả của sự kiện năm 1597, hay sự kiện năm 1611 có nguyên nhân, tiền đề từ sự kiện năm 1597.
Sự kiện năm 1611 theo tôi có tác dụng chính thức hóa chủ quyền trên vùng đất đã có cư dân người Việt, kết quả của việc thực hiện chủ trương “ lưu dân đi trước, nhà nước theo sau ” . Sau năm 1611, quá trình khai phá, lập xóm, dựng làng ở Phú Yên mà sử liệu ghi nhận, chỉ là tiếp nối những cuộc di dân từ trước năm 1611. Do đó, trong một đề tài nghiên cứu chuyên sâu như thế này, tôi đánh giá cao tầm quan trọng của cả hai sự kiện trong việc mở đất Phú Yên.
Đến giai đoạn này, lãnh thổ nước Đại Việt đã vượt qua đèo Cù Mông, tiến đến dãy Đại Lãnh với núi Đá Bia linh thiên như là minh chứng lịch sử chứng kiến cuộc Nam tiến cho dân tộc Việt, để rồi từ đó người Việt sẽ còn tiến xa hơn vượt qua dãy Đại Lãnh, bắt gặp xứ sở trần hương huyền thoại, lãnh thổ của tiểu quốc Kauthara – Champa.
* Lập hai phủ Thái Khang và Diên Ninh năm 1653.
Hai phủ Thái Khang và Diên Ninh được thành lập vào năm 1653 khi khu vực 2 phủ này được nhập vào lãnh thổ Đại Việt, 2 phủ này dưới thời Champa thuộc tiểu quốc Kauthara, sau năm 1653, chúa Nguyễn mới lấy khu vực này dựng hai phủ kể trên, cho thuộc vào Dinh Thái Khang, hai phủ này ngày nay chính là địa phận tỉnh Khánh Hòa.
Thời kỳ này, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Tần ( 1648 – 1687 ) . Biên niên sử Nhà Nguyễn ghi tên vua Champa là Bà Tấm, đối chiếu với biên niên sử Champa thì vua Champa lúc bấy giờ tên là Po Nraop trị vì từ năm 1653. Khi trước ông là một ông vua nổi tiếng, từng cưới một công nữ của chúa Nguyễn là Ngọc Khoa cho vua Po Rame. Về sự kiện này, cũng như sự kiện công nữ Ngọc Vạn cưới vua Chân Lạp Chey Chetta II , biên niên sử của nhà Nguyễn ít ghi nhận, nhưng sử liệu trong biên niên sử hoàng gia Champa có xác nhận. Vào thời Nguyễn Phúc Nguyên ( 1613 – 1635 ) , khoảng năm 1631, ông có gả một công nữ sang cho Champa, sử gia Trần Gia Phụng cho rằng đây là Ngọc Khoa, biên niên sử Champa gọi bà là Bia Ut .
Cuộc hôn nhân giữa vua Champa Pô Rame được biên niên sử Champa chép lại mang nhiều tính truyền thuyết nhưng đã phản ảnh một phần sự thật lịch sử, đó là nước Champa một lần nữa suy yếu hẳn đi sau cuộc hôn nhân Việt – Chăm năm 1631, nhờ đó, người Việt nhanh chóng vượt qua lãnh thổ Champa để tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 1653 , Sử quan nhà Nguyễn có ghi lại một chiến sự mà sau đó đã dẫn đến việc Đàng Trong sáp nhập vùng đất phía Nam dãy Đại Lãnh để lập ra hai phủ Thái Khang và Diên Ninh.
Từ sự kiện này có thể đưa ra một số kết luận, sau năm 1653, lãnh thổ Đại Việt kéo dài đến tận sông Phan Rang, mà sông Phan Rang ngày nay lại nằm giữa tỉnh Ninh Thuận. Do đó vùng lãnh thổ này thật sự phải đến tận Phan Rang và nó không thể chỉ bao gồm tỉnh Khánh Hòa ngày nay được, nhưng hầu hết các tài liệu đều ghi nhận lãnh thổ mới mở thuộc tỉnh Khánh Hòa ngày nay, có thể những sách ghi nhận biên giới sau năm 1653 đến sông Phan Rang là nhầm. Từ năm 1653, chúa Nguyễn đã dựng nên dinh Thái Khang do Hùng Lộc trấn giữ, lập hai phủ Thái Khang ( gồm 2 huyện Quảng Phúc và Tân An ) và Diên Ninh ( Phước Điền, Vĩnh Xương, Hoa Châu ) . Về trấn thủ Hùng Lộc, sử liệu không có nhiều ghi chép chi tiết nên không thể biết được họ, gốc tích và công lao của ông.
Cùng với việc thiết lập hệ thống hành chính, một bộ phận dân cư từ các dinh Thuận Hóa và Quảng Nam ..... đã bắt đầu vào đây, sinh sống lập nghiệp và tiếp tục mỡ cõi. Thủa ấy, vùng đất này còn khá hoang sơ, dân cư thưa thớt, cư dân bản địa thì sống tập trung ở một số vùng nhất định. Ban đầu những di dân này đến định cư ở dọc các con sông lớn trong vùng như sông Dinh ( Ninh Hòa ) , sông Cái ( Nha Trang – Diên Ninh ) ..... Những cư dân sống bằng nghề biển thì cư trú ở Tu Bông, Dầm Môn ( Vạn Ninh ) , Hòn Khói, Ninh Phú ( Ninh Hòa ) , Xóm Cồn, Hòn Tre ( Nha Trang ) ..... Với nhiều chính sách khuyến dân và ưu đãi, quá trình chiêu, dân lập ấp diễn ra nhanh chóng, số lượng cư dân, xóm làng ngày càng đông. Cũng như bao vùng đất khác, các thiết chế văn hóa tín ngưỡng của người Việt kết hợp với văn hóa bản địa ra đời .
Champa lúc này chỉ còn thu hẹp lãnh thổ của mình về vùng Panduranga ( Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay ) , sự kiện này dẫn đến việc người Việt đã chấm dứt luôn việc tiến ra biển của người Chăm, một đất nước đã từng làm chủ biển khơi và đạt được nhiều lợi ích, thành quả từ biển. Cùng với việc mở rộng đất đai đến Khánh Hòa, các chúa Nguyễn đã bắt đầu thực hiện chủ trương đưa lưu dân về phía Nam vùng Đồng Nai, Sài Gòn để khai phá. Hành động lập các sở thu thuế lưu dân người Việt tại vùng Sài Gòn, Đồng Nai ( 1623 ) và cho 3000 người Hoa vào đấy lập nghiệp giúp chúa Nguyễn khai phá vùng đất này ( 1679 ) đã cho thấy các chúa Nguyễn bắt đầu tính đến việc mở đất về phía Nam bộ và nghiễm nhiên đã coi vùng Đồng Nai, Sài Gòn là của mình, có quyền cho ai vào lập nghiệp cũng được.
Cho dù lúc này giữa lãnh thổ của chúa Nguyễn và vùng đất Đồng Nai, Sài Gòn vẫn cách nhau bởi một lãnh thổ tiểu quốc Panduranga – Champa ( Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay ) , nhưng khoảng cách này không làm cho ước muốn mở đất, quyết tâm làm chủ về Nam bộ của các chúa Nguyễn lung lây. Điều này, một lần nữa báo hiệu cho Champa rằng, lãnh thổ của họ đang ở trong gọng kìm của chúa Nguyễn, để thực hiện cuộc Nam tiến, không sớm thì muộn quốc gia cuối cùng của họ cũng sẽ phải cáo chung trước cuộc hành trình mở cõi của người Việt.
* Lập phủ Bình Thuận năm 1692, hoàng thành cuộc chiếm đất Champa.
Dười thời chúa Nguyễn Phúc Chu ( 1691 – 1725 ) , sử liệu ghi lại vào năm 1692 , vua nước Champa là Po Soat, mà sử Việt ghi là Kế Bà Tranh, đem quân đánh vùng dinh Thái Khang của chúa Nguyễn. Giải thích nguyên nhân của sự kiện này có thể là do người Champa luôn ấm ức về phần lãnh thổ bị mất, lúc nào cũng có ý chí lấy lại, đây là phản ứng bình thường mỗi khi bị mất đất, mất nước của bất kỳ dân tộc nào. Hoặc có thể, chúa Nguyễn dựng nên những nguyên nhân này, rồi từ đó lấy cớ để đánh Champa.
Lấy cớ năm 1692 Po Soat ( Kế Bà Tranh ) làm phản, họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh, tháng 8 ( âm lịch ) chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh ( đang là trấn thủ dinh Bình Khang, trước là dinh Thái Khang ) làm thống binh đem quân đi đánh Champa. Sang đầu năm sau, Nguyễn Hữu Cảnh chiếm được Champa, bắt được vua Po Soat ( Kế Bà Tranh) và một số tôi thần.
Đến đây, sử liệu ghi nhận sự sụp đổ của vương quốc Cham Pa sau hàng nghìn năm tồn tại. Nhà sử học Trần Trọng Kim nhận định về sự kiện này như sau : “ ..... Đã là đối địch thì không sao tránh khỏi được cái luật chung của tạo hóa là : khỏe còn, yếu chết. Vì vậy cho nên kể từ khi vua Thánh - tông nhà Lê lấy đất Quảng nam và chia nước Chiêm ra làm 3 nước rồi thì từ đó về sau thế-lực nước ấy mỗi ngày một kém, dân tình mỗi ngày một suy. Chẳng những là đến nỗi mất nước với chúa Nguyễn mà chủng-loại Chiêm-thành bấy giờ cũng chẳng còn được mấy nghìn người nữa. Một nước trước như thế mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa với nước ta mặc lòng, song nghĩ cũng thương-tâm thay cho những nước yếu-hèn không tránh khỏi được cái họa : cá nhỏ bị cá lớn nuốt ..... ”.
Nhưng nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Champa cho rằng thực tế sau năm 1793 , dù có một thời gian mất nước nhưng sau đó vào năm 1794 , chúa Nguyễn lại khôi phục vương quyền cho hậu duệ của người Champa, phong cho Kế Bà Tử, theo biên niên sử Champa tên là Po Saktiray Daputih ( 1693 – 1728 ) làm phiên vương Trấn Thuận Thành mà các nhà nghiên cứu gọi là vương quốc Panduranga – Champa. Vương quốc này mang thể chế tự trị thuộc Phủ Bình Thuận, và tuy không còn độc lập như trước kia nữa nhưng ít nhất thời này vẫn còn tồn tại một vương triều với những ông vua thế tập, những vùng hành chính, vương quốc này mãi đến năm 1832 mới hoàn toàn chấm dứt.
Về tổ chức hành chính ở khu vực này, để trấn giữ miền đất mới, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Cai đội Nguyễn Trí Thắng giữ Phố Hài, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ giữ Phan Rí, Cai đội Chu Kim Thắng giữ Phan Rang. Chúa Nguyễn cũng tạm thời giao cho Nguyễn Hữu Cảnh quản lý vùng đất mới, lập ra Trấn Thuận Thành, đến tháng 8 năm 1693 lại đổi thành Phủ Bình Thuận. Do người Champa bản địa buổi ban đầu ở đây vẫn còn đông nên chúa Nguyễn, theo kế của Nguyễn Hữu Cảnh, vẫn sử dụng người Champa trong bộ máy hành chính mới, đặc biệt là tại các vùng có đông cư dân người Chăm .
Trong việc tổ chức hành chính thời bấy giờ, chúa Nguyễn rất muốn nhanh chóng sáp nhập và tổ chức hành chính cho quy cũ, biến người Chăm thành các sắc tộc thiểu số, dần dần đồng hóa họ. Nhưng những cuộc phản kháng mãnh liệt của người Champa ( đặc biệt là cuộc nổi loạn của Ốc nha Thác và một người Hoa ở Thuận Thành tên là A Ban ) làm cho mong muốn này chưa thể thực hiện được, do đó chúa Nguyễn Phúc Chu đã đổi phủ Bình Thuận lại thành trấn Thuận Thành. Phong cho Kế Bà Tử ( một bầy tôi của Kế Bà Tranh ) làm phiên vương của trấn Thuận Thành.
Sau khi ổn định tình hình, năm 1697, chúa Nguyễn lại đặt phủ Bình Thuận, lấy đất từ Phan Rang, Phan Rí trở về phía tây chia thành huyện An Phước và Hòa Đa. Một điểm đặc biệt lúc bấy giờ là việc chúa Nguyễn bên cạnh việc lập phủ Bình Thuận để quản lý hệ thống hành chính mới ở Bình Thuận nhưng vẫn duy trì trấn Thuận Thành, tức là những vùng lãnh thổ của người Chăm ở Bình Thuận, cho họ hưởng quy chế tự trị, và một người Chăm là Kế Bà Tử được chúa Nguyễn phong làm phiên vương, một cơ chế song song người Việt ( phủ Bình Thuận ) , người Champa ( trấn Thuận Thành ) hết sức đặc biệt, được thành lập trên phủ Bình Thuận thời bấy giờ. Trong biên niên sử Champa, trấn Thuận Thành theo cách gọi của người Việt, chính là vương quốc Panduranga, một chính thể tự trị của người Champa được duy trì cho đến hết năm 1832, một hệ thống triều đình, quan chức, tổ chức địa phương của người Champa vẫn được duy trì.
Tóm lại, từ năm 1693, lãnh thổ Đàng Trong dù có biến cố, dù có một cơ chế hành chính song song cùng tồn tại nhưng về cơ bản, lãnh thổ của vương quốc chúa Nguyễn và Đại Việt đã kéo dài đến hết tỉnh Bình Thuận ngày nay, cột mốc năm 1693 còn ghi nhận công cuộc Nam tiến đã hoàn thành trên cương vực Champa. Kể từ nay, đối tượng của hành trình Nam tiến, là vùng lãnh thổ của Chân Lạp, xoay quanh mối quan hệ với Chân Lạp, Xiêm La, một giai đoạn mới của cuộc Nam tiến đã bắt đầu.
3. Quá trình sáp nhập đất đai của Chân Lạp, hình thành Nam bộ.
* Quan hệ chúa Nguyễn và Chân Lạp 1620 – 1679 và những dấu ấn đầu tiên của người Việt ở vùng đất Đồng Nai – Gia Định.
Trước kia, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp không phải là không có, nhưng đến thế kỷ XVII , mối quan hệ giữa hai nước mới trở nên trực tiếp và liên hệ liên tục. Vùng đất tiền đồn quan trọng chứng kiến những dấu ấn của mối quan hệ hai nước chính là vùng đất Đồng Nai, Gia Định. Về tên gọi vùng đất này, có thể thời bấy giờ nước Chân Lạp chia ra làm vùng đất chính, không rõ họ gọi như thế nào, nhưng sách sử nước ta gọi là Lục Chân Lạp ( có thể tương đương với lãnh thổ Campuchia ngày nay ) và Thủy Chân Lạp ( Nam Bộ Việt Nam bây giờ ) . Vùng Thủy Chân Lạp có rất ít người Khmer sinh sống, phần lớn họ đã tập trung ở Lục Chân Lạp, người Khmer ở Thủy Chân Lạp tập trung ở vùng châu thổ sông Cửu Long ngày nay ( Tây Nam Bộ ) , còn những vùng khác mà ngày nay tương đương với Đông Nam Bộ thì hầu như không tìm thấy nhiều dấu ấn của người Khmer, thay vào đó là những nhóm cư dân bản địa mà sử Việt gọi là người Man. Nhưng đây không chỉ là một sắc tộc mà có thể gồm nhiều tộc người mà ngày nay ở các tỉnh miền Đông lên đến Tây Nguyên còn dấu vết của họ đó như người Mạ, Mnông, Xtiêng ..... Dân cư của những vùng này còn thưa thớt hơn cả người Khmer ở Tây Nam Bộ, cuộc sống của họ vào thế kỷ XVII cũng rất lạc hậu, họ còn đang ở trong thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thủy.
Vì thế thủa ấy vùng đất Nam bộ vẫn còn rất hoang sơ, địa thể hãi hùng, “ dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um ” dấu chân khai phá rất ít, người bản địa chỉ tập trung ở một số khu vực nhất định, bé nhỏ trong khu vực. Nhưng vùng đất này lại rất giàu tiềm năng, đất đai trù mật, xứng đáng là nơi dừng chân lý tưởng cho người Việt trên lộ trình Nam tiến của mình.
Cùng lúc này Chân Lạp đang đối mặt với nguy cơ bành trướng của Xiêm La. Nước Chân Lạp bấy giờ cũng giống như Champa đã bắt đầu bước vào thời kỳ suy yếu. Nếu như Champa đang chịu sức tấn công của chúa Nguyễn thì Chân Lạp phải đối mặt với nguy cơ bành trướng của Xiêm La, quân Xiêm đã nhiều lần đem quân đánh vào Chân Lạp. Cộng thêm vào đó nội bộ Chân Lạp liên tục có những tranh chấp vương quyền trong hoàng tộc, những điều đó càng làm cho quốc gia này suy yếu. Trước bối cảnh đó, Chân Lạp chọn Đàng Trong để hy vọng làm một đối trọng quan trọng trong việc kìm chế sức ảnh hưởng của Xiêm La.
Năm 1620, vua Chân Lạp lúc bấy giờ là Chey Chetta II , một ông vua có chủ trương cân bằng quyền lực của vua Xiêm bằng cách kết thân với chúa Nguyễn, kết mối giao hảo với chúa Nguyễn Phúc Nguyên bằng cách cầu hôn với một công chúa của Đàng Trong. Biên niên sử nhà Nguyễn và các sử liệu nước ta hầu như không thấy ghi chép gì về sự kiện này. Nhưng các nhà nghiên cứu đề tài này sau này như Phan Khoang, Phù Lang Trương Bá Phát, Nguyễn Đình Tư, Trần Thuận ..... dựa vào việc đối chiếu những tài liệu của biên niên sử Campuchia, và tư liệu của nước ngoài ..... xác nhận sự tồn tại của cuộc hôn nhân này, nên ở đây tôi không giải thích thêm nữa .
Cuộc hôn nhân này là một dấu ấn quan trọng trong lịch sử bang giao của Đại Việt và Chân Lạp, không ai có thể phủ nhận đây là một cuộc hôn nhân chính trị. Đối với Chân Lạp, cuộc hôn nhân này giúp họ tạo nên một thế cân bằng với Xiêm La, lợi dụng sức mạnh của hai quốc gia hùng mạnh, tiềm lực ngang nhau ở hai phía Đông – Tây, họ sẽ không phải thụ động với Xiêm La, tài liệu của Christopho Borri ghi nhận việc chúa Nguyễn luôn phải triệu tập binh lính, thuyền lương để viện trợ cho Chey Chetta II chống lại nước Xiêm. Kể từ nay những biến động trong chính trường Chân Lạp sẽ phần nào chịu những ảnh hưởng của mối quan hệ Việt – Xiêm và quyền lợi của hai quốc gia này ở Chân Lạp.
Đối với vương quốc Đàng Trong của các chúa Nguyễn, cuộc hôn nhân này đã đánh một bước ngoặc đầu tiên cho cuộc Nam tiến về phía Nam bộ của chúa Nguyễn, cuộc hôn nhân này không mang lại đất đai trực tiếp cho chúa Nguyễn như cuộc hôn nhân giữa vua Champa và Huyền Trân công chúa ( 1306 ) nhưng tự bản thân nó đã tạo cho chúa Nguyễn có một vị trí quan trọng với Chân Lạp, cho việc tiếp tục hành trình Nam tiến về phương Nam, tạo điều kiện cho những lưu dân người Việt đầu tiên vượt biển đến khai khẩn vùng đất Đồng Nai, Gia Định, để sau này chúa Nguyễn Phúc Nguyên mở 2 trạm thu thuế ở Sài Gòn ( Prey Nokor ) .
Từ những năm 20 của thế kỷ XVII , nội bộ Chân Lạp tiếp tục những cuộc tranh giành quyền lực giữa các ông hoàng, lợi dụng tình hình đó, Xiêm La nhiều lần can thiệp vào nội tình Chân Lạp để nhằm tạo ra một thế lực thân Xiêm hầu làm hạn chế tầm ảnh hưởng đang lên của chúa Nguyễn đối với Chân Lạp. Trước tình hình đó, trước là để duy trì tầm ảnh hưởng của mình, sau là để thực hiện công cuộc mở đất, các chúa Nguyễn cũng tham gia vào dàn xếp nội tình Chân Lạp tạo nên những lực lượng cầm quyền thân Việt, tranh giành lợi ích với Xiêm La. Kể từ đó, mỗi diễn biến can thiệp của chúa Nguyễn vào Chân Lạp đều là những dấu hiệu cần thiết cho sự tiến gần đến việc thực hiện công cuộc mở đất của người Việt.
Năm 1628, vua Chey Chetta II băng, con là Chau Ponheu To ( 1628 – 1630 ) lên làm vua, chú là Preah Outey làm phụ chính, được 2 năm thì ông bị giết bởi ông chú Preah Outey, ông này lại lập người em của ông vua trước là Ponhea Nu ( 1630 - 1640 ) lên làm vua. Năm 1640, Ponhea Nu đột ngột qua đời, Preah Outey lại lập con mình lên ngôi, tức Ang Non I ( 1640 - 1642 ) . Nhưng chỉ 2 năm sau, con thứ ba của Chey Chetta II là Chau Ponhea Chan giết chết ông hoàng Preah Outey ( người đương khống chế quyền lực ở Chân Lạp ) và lật đổ ngôi vua của Ang Non I , tự lập làm vua, sử Việt gọi là Nặc Ông Chân ( 1642 – 1659 ).
Năm 1658, hai người con của ông hoàng Preah Outey bị giết là So và Ang Tan nổi loạn chống Nặc Ông Chân thất bại, qua trung gian của Ngọc Vạn, họ nhận được sự viện trợ của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là Thái tông Nguyễn Phúc Tần ( chúa Hiền ) sai quan phó dinh Trấn Biên ( Phú Yên ) là Nguyễn Phước Yến đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy ( tỉnh Biên-hòa, nay là Bà Rịa ) , bắt được vua nước ấy là Nặc Ông Chân đem về giam ở Quảng-bình một độ rồi tha cho về nước, bắt phải triều cống và bênh-vực người Việt sang làm ăn ở bên ấy .
Năm 1659, Nặc Ông Chân mất, chúa Nguyễn phong So làm vua Chân Lập, hiệu là Batom Reachea ( 1660 – 1672 ) . Đáp lại, vua Chân Lạp đã tạo những điều kiện cho người Việt ngày càng đến định cư tại khu vực này ( Gia Định, Mỗi Xuy, Biên Hòa ). Năm 1672 , Batom Reachea bị một người em rể cướp ngôi, tự lập làm vua, hiệu là Chey Chetta III , Ang Tan ( em của So, con của ông hoàng Preah Outey ) chạy sang cầu viện chúa Nguyễn , nhưng ngay sau đó tân vương lại bị người của vua Nặc Ông Chân giết, Ang Chei ( 1673 – 1674 ) , con trai của vua Batom Reachea, trở thành vua Chân Lạp, sử ta gọi là Nặc Ông Đài .
Nặc Ông Đài dựng thành lũy tiếp giáp với Mô Xoài, cầu viện Xiêm La đánh lại chúa Nguyễn. Quân của chúa Nguyễn phản công đánh Ông Đài, trên đường lẩn trốn ông bị đồng đảng sát hại. Ang Tan đi theo quân chúa Nguyễn về cũng bị bệnh chết, Ang Non, mà sử Việt gọi là Nặc Nộn, nắm quyền ở kinh đô Udong. Chẳng bao lâu sau, Ang Saur ( em của Ông Đài ) , sử Việt gọi là Nặc Thu, đánh đuổi Nặc Nộn, tự lập làm vua, hiệu là Chey Chetta IV, không biết vì sao được phong vương, gọi là chính vương. Nặc Nộn chạy sang Sài Côn ( Sài Gòn ) được chúa Nguyễn phong làm Obareach hay nhị quốc vương, ông lúc nào cũng muốn giành lại quyền chính vương. Kể từ đó tình hình Chân Lạp tạm yên ổn, mối quan hệ Việt – Chân Lạp cũng tốt đẹp, cả 2 vua đều tỏ ra thuần phục chúa Nguyễn .
Mối quan hệ giữa các chúa Nguyễn Đàng Trong và nước Chân Lạp từ cuộc hôn nhân công nữ Ngọc Vạn năm 1620 đến những năm 70 của thế kỷ XVII ghi nhận những dấu ấn thân thiện đầu tiên dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên và vua Chey Chetta II . Nhưng ngay sau đó, những biến động quyền lực ở Chân Lạp đã tạo những điều kiện để cho chúa Nguyễn can thiệp vào chính trường Chân Lạp. Chính từ đó, những điều kiện quan trọng của công cuộc mở cõi đã phát triển, bằng chứng là sự hiện diện ngày càng đông của người Việt tại vùng Đồng Nai – Gia Định cũng như vai trò ngày càng lớn của chúa Nguyễn với vùng đất này, cho dù trên danh nghĩa chủ quyền vẫn thuộc Chân Lạp nhưng trong những giai đoạn sau chúng ta sẽ càng thấy rõ tham vọng đặt vùng đất này dưới sự kiểm soát hoàn toàn của người Việt ở giai đoạn sau.
* Từ sự kiện 3000 người Hoa đến Đàng Trong ( 1679 ) đến khi Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược xứ Đồng Nai – Gia Định ( 1698 ).
Từ năm 1679 đến 1698 , những biến cổ dồn dập đã nổ ra xoay quanh mối quan hệ giữa các chúa Nguyễn với Chân Lạp từ sự kiện chúa Nguyễn cho phép 3000 người Hoa vào tị nạn, khẳng định vị thế mạnh mẽ cũng như khát vọng làm chủ vùng đất mới, cho đến khi chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược xứ Đồng Nai năm 1698 , chính thức xác lập chủ quyền lãnh thổ Đàng Trong đến vùng đất miền Đông Nam Bộ ngày nay.
Đầu năm 1679, các tướng cũ nhà Minh không chịu làm tôi nhà Thanh là Long Môn, tổng binh Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tiến, Cao Lôi Liêm, Tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung ( Huế ) và Đà Nẵng xin được tị nạn. Sau khi bàn bạc, chúa Thái Tông Nguyễn Phúc Tần quyết định chiêu dụ họ thực hiện công cuộc khai phá đất Đồng Nai – Gia Định vì dù trước thời điểm này vùng đất đó đã có những lưu dân người Việt nhưng nhìn chung dân cư vẫn thưa thớt, mục đích của chúa Nguyễn là muốn đi đến xác lập chủ quyền ở vùng đất này. Chúa xuống dụ cho vua Chân Lạp biết mà tạo điều kiện cho họ, không miệt thị họ .
Nhận lệnh chúa Nguyễn, một bộ phận do Trần Thượng Xuyên đứng đầu theo cửa biển Cần Giờ, định cư ở một địa điểm có tên là Bàn Lân thuộc xứ Đồng Nai ( Phan Khoang cho rằng Bàn Lân có thể là Biên Hòa ngày nay ) . Sau này Trần Thượng Xuyên thấy vùng đất Cù Lao Phố phồn thịnh nên mở rộng sang cả vùng này. Sự kết hợp giữa người Hoa vốn giỏi buôn bán và người Việt giỏi nông nghiệp đã tạo nên một vùng đất vừa trù phú vừa sầm uất, nhà cửa, xóm làng Hoa Việt thi nhau dựng lên, thuyền bè Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Dương, ..... qua lại tấp nập, tạo nên một phố thị ven sông hưng thịnh được mệnh danh là Nông Nại Đại Phố.
Một bộ phận khác do Dương Ngạn Địch đứng đầu đi theo cửa đại cửa tiểu, đem binh vô đóng ở Mỹ Tho ( người Khmer gọi là Mê Sô ) , nếu như vùng đất Gia Định – Đồng Nai đã có lưu dân người Việt định cư thì có thể vùng đất Mỹ Tho không có người Việt, hoặc giả có nhưng rất ít . Dương Ngạn Địch cho dân ở đây kết thành xóm làng, lập trang trại cho dân làm ăn và nạp thuế. Dân cư xóm làng ngày càng đông đúc, thuyền bè các nước cũng qua lại tấp nập.
Từ năm 1688, dưới thời chúa Anh Tông Nguyễn Phúc Thái, biến cố lại xảy ra. Hoàng Tiến là phó tướng của Dương Ngạn Địch giết chủ tướng, tự xưng là phần dõng Hổ oai tướng quân, dời đồn chính sang Nan Khê, đắp lũy, đúc đại bác, đóng chiến thuyền, đánh phá Chân Lạp. Chính Quốc vương Nặc Thu bỏ cống chúa Nguyễn, tổ chức phòng thủ, chống lại người Việt. Phó vương Chân Lạp là Nặc Nộn luôn muốn chống lại Nặc Thu, nhân đó đem tình hình này báo cho chúa Nguyễn .
Năm 1689, chúa Nguyễn cử tướng Mai Vạn Long đi tấn công, quân kéo đến cửa biển Mỹ Tho đóng ở Sầm Khê. Sau khi chiêu ân không được Hoàn Tiến thì lập kế dụ và công kích Hoàng Tiến, giao quân Long Môn của Hoàng Tiến lại cho Trần Thượng Xuyên. Đội quân này làm tiên phong đi đánh Nặc Thu, Nặc Thu rút về Udong, dùng kế mỹ nhân nhiều lần xin dâng cống làm chậm bước quân Mai Vạn Long. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Hào vào thay thế cho Mai Vạn Long làm thống binh vì trễ nải việc quân. Đến Nguyễn Hữu Hào, ông lại bị Nặc Thu dùng mỹ nhân kế, tiền bạc và hứa triều cống làm chậm bước, và quyết định rút binh. Kể từ sau đó Nặc Thu lại triều cống, xưng thần như trước, riêng Nguyễn Hữu Hào bị chúa Nguyễn cách chức làm thứ dân.
Sự kiện cho lưu dân người Hoa vào khai khẩn ở vùng đất Đồng Nai và Mỹ Tho năm 1679 cho thấy, thứ nhất, trong tâm thức của chúa Nguyễn ông đã xem vùng đất này sớm muộn cũng sẽ thuộc về lãnh thổ xứ Đàng Trong, thứ hai, nó khẳng định nỗ lực của chúa Nguyễn trong việc xây dựng một lực lượng hùng hậu, mang ơn và xưng thần với mình đến định cư ở vùng đất này và sau đó sẽ trở thành cư dân chính của vùng đất này, như vậy chúa Nguyễn sẽ danh chính ngôn thuận sáp nhập vùng đất này vào đất của mình. Chiến loạn của Hoàng Tiến và Nặc Thu càng thể hiện sự hùng mạnh của chúa Nguyễn, cuộc hành quân của Mai Vạn Long và Nguyễn Hữu Hào tuy không đánh đổ được Nặc Thu nhưng đã khiến Nặc Thu phải thừa nhận quyền cai trị bán chính thức của người Việt ở vùng đất Đồng Nai – Gia Định, những điều kiện cho việc chúa Nguyễn xác lập chủ quyền ở vùng đất này đã đến.
Xa hơn về hướng Bắc, ở khu vực lãnh thổ còn sót lại cuối cùng của người Champa, chúa Nguyễn bắt đầu nghĩ đến việc phải sáp nhập vùng đất này và như vậy có thể nối thông lãnh thổ của mình với xứ Đồng Nai – Gia Định và chính thức đưa vùng đất đó vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1692, chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh chinh phạt Cham Pa, bắt vua Champa là Po Soat ( Kế Bà Tranh ) , nhập vùng đất Champa của vào lãnh thổ mình, vùng đất này ngày nay là tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.
Trong khi đó ở vùng đất Đồng Nai – Gia Định, dù người Việt – Hoa đã tương đối đông, nhưng do phần đất này vẫn thuộc Chân Lạp nên số phận của họ vẫn chỉ là những người dân ngụ cư trong thân phận ngoại dân. Sau khi lấy được vùng đất Bình Thuận, các chúa Nguyễn phải giành nhiều năm nữa để bình định những thể lực chống đối còn sót lại của Champa. Đến lúc này chúa Nguyễn đã quyết định cử Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược xứ Đồng Nai – Gia Định, chính thức sáp nhập vùng đất này vào bản đồ xứ Đàng Trong nói riêng và quốc gia Đại Việt nói chung.
Năm 1698, chúa sai thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai ( người Tàu mới gọi là Nông Nại ) đặt huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên ( tức là tỉnh Biên Hòa, thời Nguyễn ) ; lấy xứ Sài Gòn hay Sài Côn đặt huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn ( thời nhà Nguyễn là tỉnh Gia Định ) . Ở mỗi dinh đặt Lư thủ, Cai bạ, Ký lục và các cơ, đội thuyền, thủy, bộ binh. Cả hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn đều thuộc Phủ Gia Định .
Lúc bấy giờ chiến tranh Trịnh – Nguyễn tạm thời kết thúc, Chúa Nguyễn dựng Lũy Thầy hay Lũy Trường Dục để làm biên giới kiểm soát nghiêm ngặt nên từ những năm 1671, người Việt ở Đàng Ngoài đi vào Đàng Trong không nhiều như trước. Sau khi sáp nhập vùng đất mới lập nên Phủ Gia Định, chúa Nguyễn sai chiêu mộ dân từ Bố Chính trở vào đến ở, cộng cư cùng với cư dân trước đó, tiếp tục lập xóm, dựng làng. Chính quyền định tô thuế, bộ đinh, bộ điền. Người Hoa được chính quyền cho lập các xã như xã Thanh Hà cho những người Hoa ở Trấn Biên, xã Minh Hương của những người Hoa ở Phiên Trấn.
Vùng đất Mỹ Tho không thuộc vùng Gia Định nên thời này chưa chính thức thuộc Đại Việt, nhưng từ đây những lưu dân vào định cư ở Phiên Trấn và Trấn Biên sẽ tiếp tục vào định cư làm cho dân cư ngày càng đông. Họ lập ra những thôn, ấp, đặt ra những người lãnh đạo, ban đầu chưa có thuế má. So với nhân dân ở Gia Định họ vẫn tương đối tự do, muốn làm nghề gì, lập đất đai, định cư ở đâu tùy ý, không chịu kiểm soát của chính quyền, Nhưng họ vẫn nạp thuế cho chúa Nguyễn và đổi lại chúa Nguyễn sẽ bảo vệ tài sản và tính mạng của họ .
Từ những chính sách thiết lập tổ chức hành chính, quân sự, thương mại và bình định các thế lực chống đối, Phủ Gia Định ngày càng trở nên quy củ, hệ thống hành chính và tổ chức canh phòng an ninh ngày càng vững chắc, tạo sự an tâm làm ăn sinh sống cho dân chúng. Nhiều nông trại của cư dân làm nông được tạo ra. Phố xá ngày càng nhộn nhịp, nhiều nhà được xây bằng gạch, có lầu, phố xá đông đúc, trên bến dưới thuyền, nhiều đường xá mộc lên, buôn bán nhộn nhịp. Cù Lao phố trở thành thương cảng lớn nhất của Gia Định vào thời gian này. Đời sống nhân dân ngày càng giàu có và yên bình, chúa Nguyễn chú trọng đến chính sách an dân, đặc biệt là luôn thực hiện chính sách hòa đồng dân tộc, các sắc dân đa dạng Việt, Hoa, Khmer tạo nên cho vùng đất này những nét văn hóa đa dạng.
Nhìn lại cuộc khai hóa miền đất Đồng Nai – Gia Định, đó không phải là những nỗ lực ngày một ngày hai mà là một quá trình được tích tụ từ nhiều năm, trải qua nhiều sự kiện. Từ cuộc hôn nhân giữa vua Chey Chetta II và sự di cư của những người Việt đầu tiên đến vùng đất này, đến cột mộc năm 1679, 3000 người Hoa vào đây, cùng người Việt chung tay góp sức khai phá vùng đất Đồng Nai – Gia Định, biến vùng lãnh thổ này trở thành của người Việt chính thức không lâu sau đó bởi chuyến kinh lược của Nguyễn Hữu Cảnh. Cuộc kinh lược này đã mở ra một vùng cương vực mới cho Đại Việt, sự mở cõi này không phải chỉ do chiến tranh mà ra, đó là một cuộc mở đất hòa bình, những cuộc bình định chỉ là thứ yếu, không phải là những cuộc chiến lớn. Sự thật, cuộc mở đất Đồng Nai – Gia Định không phải bằng bạo lực, bằng chiến tranh, mà là bằng uy đức, bằng sức mạnh tinh thần của nền văn minh Đại Việt. “ Bàn tay ” của chúa Nguyễn đã lan đến vùng đất này và sẽ còn lan xa hơn nữa, cường tỏa cương thổ xuống tận vùng châu thổ sông Cửu Long.
* Họ Mạc mở đất Hà Tiên và quy thuận chúa Nguyễn ( 1708 ).
Cùng với những đoàn người Hoa di cư vào xứ Đàng Trong những năm 70 của thế kỷ XVII , vì không chấp nhập làm tôi tớ của vương triều Thanh ( Trung Quốc ) , năm 1671, một người Hoa tên là Mạc Cửu cũng dời quê quán ( Lôi Châu, Quảng Đông ) vượt biển vào xứ Chân Lạp lập nghiệp, ông được giao cho xứ Hà Tiên và xây dựng nó trở thành một vùng đất giàu có. Nhưng trước những đe dọa từ Xiêm La, sự bất lực của Chân Lạp, năm 1708 Mạc Cửu đã quy thuận chúa Nguyễn để nhận được sự bảo hộ của xứ Đàng Trong, từ đó người Việt bắt đầu đến định cư và lập nghiệp ở nơi đây ngày càng đông, từ đó chúa Nguyễn mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình xa hơn, đến tận vịnh Xiêm La, Hà Tiên trở thành một tiền đồn quan trọng cho chúa Nguyễn hoàn thành lộ trình mở đất đến vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Xứ Hà Tiên được người phương Tây gọi với tên Cancao hay Cancar dựa theo phiên âm của người Hoa Kang K’ao hay Kong K’ao ( Cảng Khẩu ) , người Hoa thường hay gọi là Phương Thành, người Khmer gọi là Mang Khảm thuộc tỉnh Peam ( theo Nguyễn Văn Hầu chữ này có nghĩa là cửa sông ) . Tất cả các tên goi trên đều thể hiện khu vực Hà Tiên là một cửa sông, cửa hải cảng .....
Theo Mạc Thị Gia Phả, Mạc Cửu ( 1655 – 1735 ) nguyên là người xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông. Vì không chịu thần phục nhà Thanh nên năm Tân Hợi ( 1671 ) mới 17 tuổi ông đã vượt biển vào Chân Lạp, được vua nước ấy yêu mến trao cho chức Ốc Nha để lo việc buôn bán. Để độc lập hơn ông xin ra vùng đất Mang Khẩn thuộc tỉnh Peam khai khẩn, tức là Hà Tiên ngày nay .
Như vậy từ năm 1671 đến trước năm 1698 , Mạc Cửu ở Hà Tiên đã tổ chức khai khẩn đất đai, chiêu tập nhân dân dựng làng, lập xã. Mạc Cửu còn cho xây một ngôi thành trên bờ biển, lập thành phố xá, thiết lập 7 thôn xã. Mạc Cử đặt tên cho vùng đất này là Hà Tiên. Hà Tiên trở thành một vùng đất phồn thịnh, giàu có.
Nhưng vào những năm 1687 – 1688 , nhận thấy sự phồn thịnh của Hà Tiên, lợi dụng những mâu thuẫn tranh chấp giữa các phe phái ở Chân Lạp , quân Xiêm La vào đánh cướp bắt Mạc Cửu, một thời gian ông mới trở về. Những biến cố xung đột trong triều đình Chân Lạp, sự yếu thế trước Xiêm La khiến cho vùng đất này luôn nằm trọng sự đánh phá liên tục của Xiêm. Lo lắng cho điều này, Mạc Cửu muốn tìm một chỗ dựa vững chắc để an tâm trấn giữ đất Hà Tiên.
Năm 1698 , chúa Nguyễn đã lập phủ Gia Định và có địa vị vững chắc ở vùng đất Thủy Chân Lạp. Muốn duy trì địa vị của mình ở vùng đất Hà Tiên trước sự uy hiếp của Xiêm La, sự bất lực của Chân Lạp, Mạc Cửu quyết định nghe theo lời khuyên của mưu sĩ họ Tô cộng với cảm tình với người Việt vì một người vợ của ông tên Bùi Thị Lẫm là người Việt ( bà cũng là người sinh ra Mạc Thiên Tứ ) nên ông về quy thuận chúa Nguyễn.
Năm 1714 xảy ra một sự kiện quan trọng dẫn tới việc quân Xiêm đánh chiếm Hà Tiên, đây có thể là nguyên nhân khiến cho nhiều tác giả xem rằng sau sự kiện này do không thể tin vào Chân Lạp nên Mạc Cửu đã quy thuận theo chúa Nguyễn, được chúa phong tổng binh trấn Hà Tiên. Sử liệu chép lại rằng, trước Nặc Thu nhường ngôi cho Nặc Thâm ( 1706 ) , sau đó Nặc Yêm nhờ sự giúp đỡ của Lào về cướp ngôi ( 1710 ) , Nặc Thu và Nặc Tha chạy sang Xiêm La , năm 1711 – 1714 liên tục về tấn công Nặc Yêm .
Nặc Thâm nước Chân Lạp cùng bầy tôi là Cao La Hâm dấy binh vây Nặc Yêm rất gấp, Nặc Yêm sai người sang cầu cứu Gia Định, Trần Thượng Xuyên đem binh sang cứu. Nặc Thâm bị vây ở trong thành, đến năm 1715 mới trốn được về nước, lại chạy sang Xiêm La. Khoảng năm này quân Xiêm lại đưa Nặc Thâm về nước để lập nên làm vua, quân Xiêm chia quân hai đường : đường thủy thì vua Xiêm và Nặc Thâm tấn công cướp phá Hà Tiên, Mạc Cửu tháo chạy, sau khi quân Xiêm rút thì mới về lại thành, sử liệu không ghi nhận mối liên hệ nào giữa Mạc Cửu với chúa Nguyễn vào thời gian này ; về phía lục quân, biên niên sử Chân Lạp ghi quân Xiêm đến Udong, uy hiếp Nặc Yêm nhưng Nặc Yêm xưng thần nên quân Xiêm rút về. Cũng về lục quân, Đại Nam Thực Lục ghi nhận, khi đám quân này đến, Nặc Yêm có cầu cứu Gia Định nhưng chỉ được giúp đỡ về quân dụng chứ không có đưa quân sang nữa .
Dựa trên đối chiếu, phân tích các tư liệu ghi chép sự kiện này thì tôi thấy rằng lấy mốc năm 1708 là xác đáng hơn cả. Vì rằng thứ nhất, các tài liệu ghi nhận về hai sự kiện năm 1708 và 1714 chỉ có Đại Nam Thực Lục là chi tiết nhất, nhưng theo tài liệu này thì năm 1708 mới là năm chúa Nguyễn lập trấn Hà Tiên và phong Mạc Cửu là tổng binh. Các tài liệu ghi nhận năm 1714 thì lại không ghi chi tiết và thậm chí cũng không đề cập đến chiến sự năm 1714 – 1715 ( đã kể ở trên ) nên có thể Đại Nam Thực Lục là đáng tin hơn cả.
Thứ hai, trên thực tế trong chiến sự năm 1714 – 1715 thì mãi đến năm 1715 quân Xiêm và Nặc Thâm mới đánh cướp Hà Tiên, vậy thì cứ liệu ghi nhận năm 1714 mới lập Trấn Hà Tiên là không thỏa đáng vì sau khi bị tấn công có thể Mạc Cửu mới có thể nghĩ đến việc quy thuận chúa Nguyễn, vậy phải là năm 1715 chứ sao lại là năm 1714.
Thứ ba, Đại nam Thực Lục cũng không ghi nhận gì về những năm 1714 – 1715 Mạc Cửu có cử một ai đi tiếp kiến chúa Nguyễn.
Thứ tư, khi ghi nhận về việc Mạc Cửu quy thuận chúa Nguyễn, Mạc Thị Gia Phả có chép lời cố vấn của một mưu sĩ họ Tô như sau : “ ..... Người Miên bản tính bạc bẽo, hay mưu mô dối trá, hiếm kẻ trung thành chất phác, tình thế không thể nương nhờ họ lâu dài được. Chi bằng tìm sang nước Đại Việt phương Nam xưng thần ..... ” . Như vậy một lần nữa, chúng ta thấy trong lời thuyết khách này không thấy ghi chép gì về chiến sự năm 1714 cũng như sự cướp phá mạnh khiến cho Mạc Cửu phải bỏ chạy để Mạc Cửu xưng thần với chúa Nguyễn.
Từ những nguyên nhân trên, tôi thấy dù có những dị biệt về thời gian nhưng các sự kiện từ chuyện thuyết khách họ Tô đến việc Mạc Cửu vào triều xưng thần với chúa Nguyễn, các tài liệu đều ghi chép như nhau. Vậy có thể Mạc Thị Gia Phả đã rơi vào trường hợp nhầm lẫn ghép sự kiện nhầm thời gian và vì những phân tích ở trên chúng tôi thấy tư liệu của Thực Lục có thể tạm tin cậy được. Mốc thời gian chính thức Hà Tiên trở thành lãnh thổ đặt dưới chúa Nguyễn và nước Đại Việt, theo tôi là năm 1708 có vẻ hợp lý nhất.
Sau khi trở thành lãnh thổ nội thuộc vào Đàng Trong, các chúa Nguyễn không dựng Hà Tiên là một dinh như các địa phương khác mà gọi Hà Tiên là Trấn, tức là vẫn thừa nhận ít nhiều quyền tự trị của vùng đất này. Mạc Cửu trở về Hà Tiên chính thức xây dựng dinh ngũ, mở mang doanh trại, cắt cử các chức vị cho thuộc hạ, sắp đặt trụ sở để chiêu hiền tài ..... Năm 1735 Mạc Cửu mất, chúa Nguyễn tặng tước là Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Đại Tướng Quân Vũ Nghị Công, cho con là Mạc Thiên Tứ làm Đô Đốc trấn giữ Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ tiếp tục công việc của cha, đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy nho học để khai hóa đất Hà Tiên thấm nhuần phong tục Trung Hoa. Từ năm 1735 – 1739 , Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ ( ngày nay ) , đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong.
Sự kiện chúa Nguyễn ( Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu ) sát nhập vùng đất Hà Tiên do kết quả của sự quy thuận của Mạc Cửu có một ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc Nam tiến của dân tộc. Thứ nhất, vùng đất Hà Tiên lúc bấy giờ có giới hạn rộng lớn tương đương với tỉnh Hà Tiên thời nhà Nguyễn, gần tương đương tỉnh Kiên Giang, Cà Mau bây giờ và tương lai sẽ còn mở rộng nữa. Thứ hai, sau khi sáp nhập vùng đất này, chúa Nguyễn đã tạo một gọng kìm giữa phủ Gia Định và Hà Tiên với phần còn lại của đồng bằng sông Cửu Long, không sớm thì muộn chúa Nguyễn sẽ sáp nhập toàn bộ phần đất ở giữa Gia Định và Hà Tiên, bấy giờ còn thuộc Chân Lạp, và hoàn thành công cuộc Nam tiến. Việc sáp nhập vùng đất Hà Tiên đã đẩy cường độ của cuộc Nam tiến lên rất nhanh, chỉ 50 năm sau nữa, một vùng đất rộng lớn gần bằng với phủ Gia Định sẽ sáp nhập vào Đàng Trong. Hà Tiên thật sự là chiếc chìa khóa của cuộc Nam tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long của người Việt.
* Từ sự kiện lập Dinh Long Hồ ( 1732 ) đến sáp nhập vùng đất Tầm Phong Long ( 1757 ) – những bước cuối cùng của lộ trình Nam Tiến.
Năm 1732, người Việt lại tiến thêm một bước nữa trong lộ trình Nam tiến của mình. Bắt đầu từ sự kiện năm 1731, một phong trào chống Đại Việt bùng nổ, nhân cớ đó chúa Nguyễn Phúc Trú cử binh đánh Chân Lạp, tạo điều kiện để lập dinh Long Hồ, nay thuộc địa phận Vĩnh Long, Bến Tre, vào lãnh thổ Đàng Trong. Phần lãnh thổ này sau được nhập chung với một số vùng khác, trở thành tỉnh Vĩnh Long thời Nguyễn ( một trong sáu tỉnh Nam Kỳ ).
Sử liệu ghi nhận vào năm 1731, một phong trào chống người Việt ở các vùng có người Việt sinh sống do một người tên Sá Tốt lãnh đạo. Họ lập nghĩa quân đánh người Việt ra khỏi Chân Lạp rồi tiến đánh Gia Định. Chúa Nguyễn Phúc Trú cử Trương Phước Vĩnh phối hợp cùng Trần Đại Định ( con trai Trần Thượng Xuyên ) đi dẹp loạn. Lúc bấy giờ vua Chân Lạp là Nặc Tha được Nặc Yêm nhường ngôi năm 1722 vì sợ tội liên lụy nên cùng nhau tháo chạy, nhưng sau có xin quy thuận và hứa bắt được bọn chống đối người Việt nên được trở về tại vị. Về phía mình, Phước Vĩnh rút về Gia Định nhưng do Nặc Tha không thể chống nổi cuộc nổi loạn chống người Việt nên năm 1732, Trương Phước Vĩnh lại cất quân dẹp loạn, sau khi xong việc lại rút về, chỉ để Trần Đại Định ở lại, sau này Nặc Tha dùng mưu khiến cho Đại Định chết .
Sau chiến sự này, uy thế của chúa Nguyễn lại tăng lên, thế lực của Chân Lạp trước Đại Việt ngày càng kém. Nhân đó chúa Nguyễn buộc Nặc Tha phải chính thức thừa nhận sự cai trị của chúa Nguyễn ở Mỹ Tho ( người Chân Lạp gọi là Me – Sa ) và nhượng lại phần đất Long Hor ( Vĩnh Long ) cho Đàng Trong. Hai lãnh thổ này đã có người Việt sinh sống rất đông nhưng vẫn thuộc chủ quyền Chân Lạp. Phần đất Long Hor chúa Nguyễn đặt thành châu Định Viễn và dinh Long Hồ cho thuộc vào phủ Gia Định, phần đất Mỹ Tho vẫn tạm được giữ quy chế tự trị như trước, sau này đến năm 1772 mới chính thức thiết lập các hệ thống hành chính.
Vùng đất này có một tầm quan trọng đặc biệt về cả hai phương diện chiến lược : bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển nông nghiệp. Tiền Giang và Hậu Giang là đường chuyển quân chính yếu giữa miền Nam và Cao Miên. Đây là vùng đất phì nhiêu màu mỡ rất tốt, quanh năm có nước ngọt, mùa lũ không ngập, một vùng đất lý tưởng để làm ruộng, trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, dừa và các loại cây trái đặc sản. Về sau đã sớm trở thành vựa lúa giàu có nhất nước. Đây cũng là vùng giàu có nhất nước về cây ăn quả, về thủy hải sản. Ba nền văn minh về nông nghiệp của Nam Bộ chủ yếu cũng xuất hiện phần lớn ở vùng này, đó là văn minh lúa nước, văn minh miệt vườn và văn minh kênh rạch Nam Bộ.
Trong giai đoạn sau, nội tình nước Chân Lạp lại có nhiều biến động. Năm 1736 , Nặc Thâm trở về đánh bại Nặc Tha làm vua Chân Lạp, xưng thần với chúa Nguyễn. Nặc Tha chạy đến Gia Định tị nạn suốt 10 năm sau. Năm 1739 , Nặc Thâm có ý định chiếm Hà Tiên nhưng đội quân của ông bị Mạc Thiên Tứ đẩy lui, kể từ đó sức mạnh của Mạc Thiên Tứ ngày càng lớn. Năm 1747 , Nặc Thâm mất, các người con của ông tranh giành quyền lực thay nhau cầm quyền làm cho tình hình Chân Lạp ngày càng rối rắm. Thừa dịp ấy, một người ở Ba Thắc ( Chân Lạp ) nổi loạn chống lại người Việt, đánh phá Mỹ Tho.
Đầu năm 1748, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Doãn đi dẹp loạn thắng lợi. Thừa thắng, quân Việt còn chiếm Chân Lạp, đưa Nặc Tha ( đang tị nạn ở Gia Định ) trở về làm vua nhưng trên thực tế người Việt hoàn toàn kiểm soát chính quyền. Không lâu sau thì người Chân Lạp do Cao La Hâm chỉ huy lại đánh đuổi người Việt, đuổi Nặc Tha về Gia Định một lần nữa. Họ lại lập một người con của Thomma Reachea III ( người con nối ngôi của Nặc Thâm, sau bị anh là Ang Hing cướp ngôi ) là Angk Snguon lên ngôi, hiệu là Chey Chetta V ( 1749 – 1755 ) , sử ta gọi là Nặc Nguyên .
Chey Chetta V ( Nặc Nguyên ) lên ngôi giữa lúc mà sức mạnh và thế lực của chúa Nguyễn ở Chân Lạp đang rất lớn, ông luôn muốn xóa bỏ những ảnh hưởng của chúa Nguyễn ở Chân Lạp nhưng đồng thời cũng muốn hạn chế ảnh hưởng của Xiêm La. Ông đã tìm người thông sứ và liên kết với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài nhằm dung hòa ảnh hưởng của chúa Nguyễn với đất nước của mình. Chúa Nguyễn biết điều này nhưng không có lý do gì để trừng phạt Nặc Nguyên. Nhân lúc vua Chey Chetta V tổ chức đàn áp những người Chăm đang định cư trên đất Chân Lạp, những người này vốn là thần dân của Champa, sau khi bị chúa Nguyễn sáp nhập vào năm 1692, họ di cư xuống Chân Lạp sinh sống ( sử ta gọi là Côn Man ) . Lấy cớ họ là dân trấn Thuận Thành dưới sự bảo trợ của mình, để bảo vệ họ, chúa Nguyễn phát quân chinh phạt Chân Lạp.
Năm 1754 – 1755 , chúa Nguyễn Phúc Khoát sai cai đội Thiệu Chính làm thống suốt, Nguyễn Cư Trinh làm tham mưu đi đánh Chân Lạp. Chey Chetta V chạy đến Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ xin giúp cho, ông tình nguyện dâng hai đất Tần Bôn và Lôi Lạp ( tức là Tân An và Gò Công xưa ) . Sau khi được Nguyễn Cư Trinh cố vấn, chúa Nguyễn chấp nhận lấy hai vùng đất này sáp nhập vào châu Định Viễn thuộc dinh Long Hồ, như vậy đến đây lãnh thổ của xứ Đàng Trong ở miền Nam đã từ Gia Định đến Tiền Giang.
Năm 1757 , Nặc Nguyên mất, Nặc Nhuận lên coi việc nước, ông muốn chúa Nguyễn phong cho mình làm vua Chân Lạp nên dâng hai phần đất SrokTrang hay Ba Thắc ( Sóc Trăng ) và Preah Trapeang ( Trà Vinh ) để được làm vua. Đến đây lãnh thổ của chúa Nguyễn đã vượt qua được phần phía Đông của sông Hậu. Nhưng ngay sau đó thì con rể của Nặc Nhuận là Nặc Hinh giết và cướp ngôi, Nặc Tôn con của Nặc Nhuận chạy đến Hà Tiên, thống suất Trương Phúc Du lấy cớ tấn công Nặc Hinh, không chống nổi Nặc Hinh phải tháo chạy rồi bị giết trên đường chạy nạn. Chúa Nguyễn sắc phong Nặc Tôn làm vua Chân Lạp, để đền ơn chúa Nguyễn, Nặc Tôn đã dâng phần đất Tầm Phong Long ( phần đất giữa sông Tiền sông Hậu ) . Ngoài ra để hậu tạ Mạc Thiên Tứ, Nặc Tôn dâng 5 phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt, Linh Quỳnh cho đô đốc Hà Tiên ( sau này vào thời Pháp, vùng đất này được trả lại cho Campuchia, ngày nay là 2 tỉnh Takéo và Kampot ) , Mạc Thiên Tứ lại đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản.
Sau khi có được phần đất đai mới, chúa Nguyễn bắt đầu tổ chức hành chính và cai trị. Chúa cho dời dinh Long Hồ đến xứ Tầm Bao, đặt các đạo Đông Khẩu ( Sa Đét ) , Tân Châu ( Tiền Giang ) , Châu Đốc ( Hậu Giang ) . Riêng những phần đất 5 phủ mà Nặc Tôn tặng cho Mạc Thiên Tứ thì Mạc Thiên Tứ xin lập 2 đạo trên phần đất đó là Kiên Giang ( Rạch Giá ) và Long Xuyên ( Cà Mau ) , khắp các vùng đất này đều tổ chức quan lại, chiêu tập dân cư đến sinh sống. Đến đây toàn bộ miền đất Nam Bộ, tức là Thủy Chân Lạp trước kia, đều thuộc của người Việt, quá trình Nam tiến đến đây xem như đã hoàn thành.
Từ sau khi có được vùng đất mới, Nguyễn Cư Trinh được chúa Nguyễn sai tập trung binh lính và mộ dân đến khai thác các vùng Châu Đốc, Hồng Ngự, Tân Châu, Sa Đéc. Ông mộ dân lập ấp, đoàn kết các cộng đồng cư dân trong vùng, tổ chức an ninh trên vùng đất mới, đảm bảo sự thông thương buôn bán trên vùng rạch hồ ..... Ông còn ra lệ bắt thuyền các Hạt bất luận lớn nhỏ, trước mũi phải khắc tên họ, quê quán, chủ thuyền và ghi bộ quan sở tại để tiện tra xét. Những nỗ lực của Nguyễn Cư Trinh đã góp phần quan trọng vào công cuộc khẩn hoang lập làng, tạo tiền đề quyết định cho sự ổn định của miền biên viễn giai đoạn tiếp theo sau đó.
Trong suốt giai đoạn cuối thế kỷ XVII , dân chúng tự động vào khai phá ở hai đạo Đông khẩu và Châu Đốc ngày càng đông. Cũng trong năm 1790, Nguyễn Ánh cho áp dụng chế độ đồn điền ở Gia Định, mục đích là dùng quân đội vào việc khẩn hoang, vừa gia tăng hậu cần vừa có thể giữ đất lâu dài. Theo đó, điền tốt dân nghèo bị bắt buộc hoặc chiêu mộ đi khẩn hoang nhằm vào những vùng đất mới như Châu Đốc, Tân Châu ..... chính quyền còn ban hành những quy định rất dễ dãi đối với người đi khẩn hoang như cấp phát ruộng đất, trâu bò, nông cụ ..... Trong giai đoạn tiếp theo, nhà Nguyễn cũng rất chú trọng đến công tác khai phá vùng đất Nam bộ, cuộc tổ chức khẩn hoang nổi tiếng của Thoại Ngọc hầu và việc xây dựng hai con kênh Thoại Hà và Vĩnh Tế đã thể hiện cho ước vọng của người Việt trong việc mở cõi trên mảnh đất phương Nam này.
Tiểu kết :
Trong chương này, tôi đã nghiên cứu lịch sử tiến trình của cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam dưới góc độ phân kỳ lịch sử. Hai giai đoạn lớn được phân ra là giai đoạn thời Lý – Trần – Hồ – Lê và giai đoạn Nam tiến thời chúa Nguyễn mà tôi gọi là quá trình từ tự phát lên tự giác.
Năm 1069 đánh dấu mốc khởi đầu của tiến trình khi Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Champa, vua Champa Rudravarman III ( Chế Củ ) phải dâng 3 vùng đất Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh ( Quảng Bình và Bắc Quảng Trị ) .
Năm 1306, vua Champa Simhavarman III ( Chế Mân ) dâng hai châu Ô, Lý ( Nam Quảng TrỊ, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng và Bắc Quảng Nam ) cho Đại Việt để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân.
Năm 1402, nhà Hồ đem quân đi đánh Champa, Champa lấy đất Chiêm Động, Cổ Lũy ( Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi ) để cầu hòa. Năm 1407 khi nhà Hồ bị lật đổ, Champa khôi phục lại vùng đất này.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông nhân Champa xâm lấn, đem quân đánh vào tận kinh đô Vijaya ( Đồ Bàn ) Bình Định ngày nay, sáp nhập vùng đất Chiêm Động, Cổ Lũy trước kia và một phần tỉnh Bình Định ngày nay vào lãnh thổ Đại Việt.
Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng phái Văn Phong đem quân vào đánh nước Champa lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc Phú Yên.
Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh Champa. Bà Tấm xin hàng, chúa Nguyễn để từ sông Phan Rang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Rang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh.
Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh cùng thân thuộc về Phú Xuân ( Huế ) . Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn Biên dinh ( Biên Hòa ) , đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà và Phiên Trấn dinh ( Gia Định ) , đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị.
Trước đó, sau cuộc hôn nhân giữa vua Chey Chetta II và công nữa Ngọc Vạn ( 1620 ) , người Việt đã đến vùng Đông Phố sinh sống rồi. Năm 1679, một bộ phận 3000 người Hoa do Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch đến quy thuận chúa Nguyễn và được chúa cho vào vùng đất này để khai phá.
Năm 1708, để tránh áp lực thường xuyên của Xiêm La sang cướp phá, Mạc Cửu ( người có công khai phá và xây dựng đất Hà Tiên ) đã dâng đất khai phá xin nội thuộc về chúa Nguyễn, chúa Nguyễn đổi tên thành Trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm chức Tổng binh, cai quản đất Hà Tiên. Từ năm 1735 – 1739 , Mạc Thiên Tứ, con của Mạc Cửu, mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong .
Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre, dựng dinh Long Hồ trực thuộc phủ Gia Định .
Năm 1755, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên ( Ang Tong ) thông sứ với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1756, Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp ( nay là Tân An và Gò Công ) cho chúa Nguyễn để cầu hòa.
Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc ( Sóc Trăng ) xin chúa Nguyễn Phúc Khoát phong cho làm vua Chân Lạp, sau đó Nặc Nhuận bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh, chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn ( Outey II ) , con Nặc Nhuận, vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long ( vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc ) để tạ ơn chúa Nguyễn.
Nặc Tôn lại dâng 5 phủ nữa là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn riêng Mạc Thiên Tứ, Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản. 5 phủ này về đến thời Pháp được trả lại cho Campuchia, ngày nay là 2 tỉnh Takéo và Kampot.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét