Trang

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2016





Luận về Tào Tháo .


( Vũ Tài Lục : lược trích )


“ Car la force est juste quand elle est nécessaire ” - Machiavel

“ Dĩ dật đạo sử dân, tuy lao bất oán

Dĩ sinh đạo sát dân, tuy tử bất oán sát giả ” – Mạnh Tử


Qua sách sử Trung Hoa, đời Bắc Tống đã có người ghi lại một đoạn bút ký nói rằng : “ Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại thì khoái chí reo mừng ”.

Đọan bút ký ấy cũng cho ta biết ngay cả trước khi tập Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, dân chúng đã có một nhận xét riêng của họ : Yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo.

Như vậy thì bộ Tam quốc chí diễn nghĩa tuy phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng sự thực bộ tiểu thuyết này đã có một quá trình sáng tác của nhiều người. Ở Tam quốc chí diễn nghĩa ta còn thấy nhà văn La Quán Trung sử dụng đến mức tuyệt diệu nghệ thuật văn học để làm nổi bật hai bộ mặt thiện, ác tương phản của Tào và Lưu, cùng khơi sâu tâm lý yêu Bị ghét Tháo vẫn sẵn có từ trước.

Điểm này La Quán Trung có đáng trách hay không ? Trả lời, bộ biên tập của nhà xuất bản Trung Quốc viết :

– Tam quốc chí diễn nghĩa, khác hẳn với những sách viết về khoa học xã hội. Nhiệm vụ của nó không phải là trình bày bình luận hoặc phân tích một cách khách quan trên một số vấn đề lý trí, mà là dùng nghệ thuật sáng tạo để làm cảm động người đọc, trực tiếp đánh vào tình cảm người đọc .

Đối với La Quán Trung thì tiểu thuyết viết Tào Tháo không phải là tạo ra nhân vật lịch sử Tào Tháo nguyên hình như cũ, mà là mượn nhân vật lịch sử để sáng tạo ra hình tượng nhân vật và tính cách điển hình rất phong phú phức tạp. Nói một cách khác, trong truyện viết Tào Tháo không phải chỉ là viết Tào Tháo thực trong lịch sử mà là viết ra rất nhiều Tào Tháo trong lịch sử. Chủ yếu của tiểu thuyết là sáng tạo ra một nhân vật điển hình để vạch rõ thói hung tàn nham hiểm của bọn thống trị phong kiến, để cho nhân dân quần chúng nhận thức được một cách cụ thể. Tức là đem tất cả những hình tượng tàn ác, bản chất xấu xa bỉ ổi của thống trị phong kiến tập trung lại, khái quát lên, sáng tạo ra cái nhân vật phản diện Tào Tháo. Phản ảnh như vậy so với cách trực tiếp bộc lộ càng sâu sắc hơn, so sánh với trực tiếp tố cáo, tư tưởng tính càng mạnh mẽ hơn, đó là một sự thống nhất hoàn chỉnh giữa tư tưởng và nghệ thuật tính rất cao vậy.

Về phần chúng ta bình luận về Tào Tháo, thì chúng ta bàn luận trên cơ sở nào ?

Chúng ta sẽ trình bày, phân tích Tào Tháo trên một số vấn đề lý trí.

Do đó, việc cần thiết hàng đầu là một thái độ tuyệt đối khách quan, nghĩa là hãy tước bỏ đúng mức tâm lý yêu ghét bị tuyên nhiễm bởi Tam quốc chí diễn nghĩa.

Vậy Tào Tháo là con người thế nào ?




Các nhà văn học Trung Quốc thường phân tích về thân phận Tôn Quyền là con nhà quý tộc, Lưu Bị là người kẻ chợ và Tào Tháo là dòng dõi môn phiệt. Sở dĩ Tào Tháo ở trong hàng ngũ môn phiệt bởi vì cha Tào Tháo là Tào Tung làm quan đến chức Thái Úy và Tháo nhờ thế lực của cha nên hai mươi tuổi đã được cử làm Hiếu Liêm.

Hiếu Liêm là một chức quan nắm quyền cai trị ở cấp bực trung bình của chính quyền địa phương. Chức Hiếu Liêm là sản phẩm của nền hành chính Hán Triều. Đời Hán Vũ Đế đặt ra lệ bắt các trưởng quan địa phương mỗi năm phải chọn và đề cử một người thanh liêm, hay một người con hiếu ra chấp chính.

Đặt ra chức này, Hán Vũ Đế muốn lấy Đức Hạnh dùng làm nền tảng cai trị. Ban đầu do sự thi hành đúng nên Hiếu Liêm cũng gây thành phong khí tốt, dư luận hay. Nhưng lần lần, Hiếu Liêm trở thành một thứ hàng độc quyền của các đại gia, mặt khác nó làm cản bước tiến của trí thức, trở thành đầu mối của tranh chấp Bình dân và Môn phiệt. Hiếu Liêm đã biến chất không còn như ý nguyện của Hán Vũ Đế muốn dùng nó làm chiếc cầu cảm thông giữa quần chúng với chính quyền nữa.

Tào Tháo nhận chức Hiếu Liêm, tất nhiên cũng sẽ bị trí thức bình dân và quần chúng nhìn bằng con mắt hằn học và cũng bị liệt vào hàng phe phái Môn phiệt.

Biết vậy, nên lúc tại chức Tào Tháo đã ra sức chống lại bọn cường hào, đả kích chính sách hoạn quan. Do đó lúc sang nhận chức ở Tế Nam, bị bọn cường hào cùng bè lũ tay sai hoạn quan oán hận, Tháo sợ gây nên tai họa lớn, bèn từ chức.

Lúc từ chức, Tào Tháo 30 tuổi, ông nói :

– Cùng chức Hiếu Liêm với tôi có người 50 tuổi mà trông vẫn còn trẻ măng, tôi còn những 20 năm nữa mới bằng họ, vậy tội gì mà không tìm cách ẩn cư đợi thời .

Tào Tháo lui về quê hương là Tiêu huyện, dựng một căn nhà thoáng đãng để đọc sách, giồng hoa, săn bắn. Thời gian này Tào Tháo đem hết tâm trí vào việc rèn luyện khả năng chính trị, quân sự.

Xem thế đủ biết, tuy xuất thân môn phiệt nhưng nhờ nhãn tuyến chính trị sắc bén, Tháo đã gột bỏ tâm chất môn phiệt để nhất định đứng vào hàng ngũ trí thức và quần chúng tiến bộ.

Gian thần thoán đoạt ?

Hậu thế gán cho Tào Tháo hai chữ “ gian tặc ” . Lý do là Tào Tháo đã thoán đoạt ngôi nhà Hán. Dùng danh từ gian tặc để chỉ Tào Tháo hoàn toàn là lý luận của bọn chính thống đương thời và đời sau. Chống lại sự vu oan đó, chúng ta chưa cần viện dẫn nhiều mặt khác mà có thể đứng ngay trên lập trường chính thống cũng đủ biện bạch cho Tào Tháo.

Trước hết, suốt đời Tào Tháo nắm quyền thao túng quốc sự không hề có chuyện phế lập. Thế lực họ Tào không ai chối cãi là đã lấn át cả vua nhưng không phải là thoán đoạt, bởi vì :

a ) Sau Hán Vũ Đế, Hoắc Quang làm đại thần phụ chính thì nội bộ chính quyền nhà Hán đã phân hóa giữa chính phủ và Hoàng thất, đưa dẫn tới xung đột rồi.

b ) Đời Tháo thì Hoàng thất nhà Hán đã mất khả năng và uy tín thống trị. Đương nhiên, Tháo phải tận lực sử dụng quyền lực để ổn định quốc gia.

Với Tào Tháo, vấn đề thoán đoạt vô nghĩa và ông không coi việc ấy là tham vọng hay mục đích của đời ông.

Dẹp xong ba mươi vạn quân Khăn vàng, đánh tan Viên Thiệu, bình Viên Thuật, đả bại Lưu Biểu, Tháo nói :

– Giả thử quốc gia mà không có tôi, thì còn biết bao kẻ xưng vương xưng đế. 

Suy ngẫm về lực lượng của mình, Tháo thường nói :

– Mọi người thấy binh lực tôi mạnh, lại cho rằng tôi là người không tin thiên mệnh nên ngờ tôi có ý lật nhà Hán. Nhưng tôi nghĩ trái hẳn, tôi há không biết rằng Tấn văn Công xưa mạnh nhường ấy mà vẫn một lòng một dạ với nhà Chu, Chu Vương chiếm hai phần ba thiên hạ mà vẫn phụng sự nhà Ân hay sao ?

Sách sử ghi chép rằng :

– Bình nhật, Tào Tháo thường hay kể chuyện tình cố quốc của Nhạc Nghị với nước Yên, với vẻ mặt hết sức cung kính say sưa.

Tam quốc chí dựa vào quan điểm chính thống, diễn tả hành động thoán đoạt của Tào Tháo trên mấy sự việc quan trọng như :

1 ) Vụ săn bắn ở Hứa Điền.

2 ) Ngôn ngữ trong bài hịch kể tội của Trần Lâm.

3 ) Vụ bức tử Đổng Phi.

Dưới đây chúng ta hãy bàn cãi từng sự việc một.

Như chúng ta đã được biết, kể từ sau đời Hán Vũ Đế, chính quyền đã có sự phân tách giữa chính phủ và hoàng thất nhà Hán đã kém vế rồi, triều thần thuộc tập đoàn thống trị phe chính phủ vẫn thường lấn áp quyền Hoàng đế, ngược lại Hoàng thất luôn luôn tìm cách khôi phục quyền mình. Thậm chí để gây cánh, tin dùng cả bọn hoạn quan để mong tạo thế lực. Đến loạn kiêu binh Lý Thôi - Quách Dĩ, mới đầu hoàng thất bị xâm phạm, sau cả chính phủ cũng bị khinh miệt. Do đó, đứng trước tai ách chung, triều thần và hoàng thất tạm gác bỏ xung đột, liên kết với nhau, vì sức không đủ nên phải cầu viện bên ngoài. Triều thần và vua chúa thỏa thuận mời Tháo. Tháo được Triều thần chọn bởi hai lẽ :

1 ) Lực lượng Tào gần Kinh đô nhất.

2 ) Tào cũng dòng dõi môn phiệt, chung quyền lợi với bách quan trong triều. 


Cả hoàng thất lẫn triều thần mơ hồ tưởng rằng lực lượng của Tháo là một lực lượng của chức viên thuộc hạ. Họ lầm vô cùng, lầm vì trí lực của họ không đạt tới mức Tháo. Tháo mạnh là vì ông biết gắn liền với lực lượng chính trị đang lên, chứ Tháo đâu có mạnh là vì dòng dõi môn phiệt, cho nên, việc về dẹp giặc của Tào Tháo đối tượng không chỉ riêng kiêu binh Lý Thôi - Quách Dĩ ; đối tượng còn khả năng đứng mũi chịu sào trong cơn đại biến động nữa. Lúc Lý Thôi - Quách Dĩ thua chạy rồi triều thần mới ngã ngửa ra. Các quan muốn bảo vệ quyền lợi của mình liền thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế, để làm lập trường đấu tranh với Tào Tháo. Thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế rồi, triều thần liền phát động tâm lý căm phẫn, thương xót vua bị Tào Tháo ức chế như Tháo đã cả gan tế ngựa ra đứng trước mặt vua để nhận lời chúc mừng của Bách quan, khiến Quan Vân Trường giận, mày tầm dựng ngược mắt phượng giương to, cầm đao thúc ngựa định ra chém Tào Tháo.

Cuộc xung đột giữa triều thần với tập đoàn Tào Tháo lan rộng từ trung ương ra các địa phương. Trịnh Thượng Thư gửi thư cho Viên Thiệu khuyên Thiệu cất quân đánh Tào. Thiệu nghe và sai Trần Lâm thảo hịch đánh Tào. 

Bên ngoài Viên Thiệu hiệu triệu đánh Tào, bên trong các triều thần tụ họp âm mưu lật Tào. Vì tổ chức Tháo chặt chẽ quá nên hoạt động của đám triều thần chỉ thu hẹp vào việc giết Tháo. Sứ mệnh giết Tháo được giao phó cho danh y Cát Bình giả đến chữa bệnh rồi tìm cách đầu độc, chuyện tính không xong, Cát Bình bị giết, bọn Vương tử Phục bị bắt cùng với cả nhà Đổng Thừa. Tháo sai đem ra chợ chém tất.

Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi đem gươm vào cung để giết Đổng quý Phi. Quý Phi là em gái của Đổng Thừa đã có mang 5 tháng. Hiến Đế xin cho Đổng Phi, nói : Đổng Phi đã có mang 5 tháng xin thừa tướng thương cho. Tháo không nghe. Đổng Phi khóc nói : Xin cho toàn vẹn thân thể mà chết, đừng để bộc lộ. Tháo sai đem tấm lụa trắng đến trước mặt Đổng Phi. Đổng Phi cứ van khóc mãi, Tháo liền quát võ sĩ lôi Đổng Phi ra thắt cổ ở cửa Cung.

Bọn chính thống dùng mọi cách bi thiết hóa để gợi tình cảm chống Tào trên vụ án chính trị Đổng Phi. Thảm cảnh ngụy tạo ấy chỉ tốt cho văn nghệ chứ không thể dùng làm căn cứ để phán xét công việc của một người có trách nhiệm với lịch sử. Bọn chính thống vì tôn phụng quyền lợi một tộc họ nên lấy cá nhân mà đại biểu cho đại cục. Đổng Phi dù có bị giết tàn nhẫn hơn thế nữa, lịch sử cũng không vì vậy mà bớt những vụ tương tự.

Chính trị không phải là một công việc êm ái, nhẹ nhàng như ta nhàn nhã hái bông hoa vì chính trị vốn là khối mâu thuẫn xung đột ác liệt của xã hội. Làm chính trị là đối phó với những gì cường bạo, tham lam xảo quyệt. Nhà chính trị cỡ lớn phải biết ràng buộc vào sự an nguy của thời thế, của đại cục. Giết Đổng Phi, Tào Tháo nói : “ Nếu ta thất bại thì Quốc gia sẽ bước vào cục diện cực nguy hiểm ”.

Một nhà chính trị nếu có đủ thế lực, đủ uy tín để nói câu đó mà không thấy ngượng, không bị người khác chối bỏ thì thiết tưởng thân phận cá nhân kiểu Đổng Phi chẳng là nghĩa lý gì hết. Không bắt giết bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa và Đổng Phi để bọn này liên lạc được với Viên Thiệu làm loạn thì xã hội sẽ ra sao ? Bản thân Tháo sẽ ra sao ?

Khi người ta, chẳng hiểu may hay là không may, phải sống vào lúc nhiễu nhương, xã hội hỗn loạn mà trách nhiệm xây dựng, bình định lại rơi vào chính tay mình thì đương nhiên không thể tránh khỏi tình trạng hành động tự do của kẻ này sẽ đe dọa đời sống của kẻ khác và tàn bạo phải nẩy sinh ra.

Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng

Trải qua một thời gian khá dài, toàn bộ văn hóa Trung Quốc lấy dân tộc làm trung tâm, dựa vào thế lực của kinh tế và quân sự đã phá tan những chướng ngại phong kiến để đi sang thời đại thống nhất Trung Quốc. Ban đầu là nhà Tần, sau đến Lưu Bang giữ vai chính trên vũ đài hòa theo với các cuộc vận động của phần tử trí thức.

Thời kỳ trước Tam quốc và trong Tam quốc, công cuộc thống nhất chưa hoàn thành, nhiệm vụ thống nhất càng nặng mà toàn bộ xã hội Trung Quốc đã rơi vào tình trạng cực kỳ rối loạn. Tuy nhiên, bánh xe lịch sử không vì thế mà ngừng hướng về thống nhất. Chỉ có khác một điểm là : Lẽ ra chính quyền Trung ương lãnh đạo công cuộc thống nhất nhưng vì Trung ương quá yếu nên việc thống nhất chuyển sang tay các thế lực lớn ở địa phương thôn tính các thế lực nhỏ để thống nhất từng mảnh trước, chờ đợi cuộc tranh chấp cuối cùng tiến tới thống nhất toàn bộ.

Xã hội rối loạn của Tam Quốc có thể khái quát bằng mấy điểm sau đây :

a ) Thối nát, băng hoại đến nỗi mất hết khả năng giải quyết mọi vấn đề khẩn cấp của Quốc gia và đảm bảo những điều kiện sinh hoạt thường nhật của dân chúng.

b ) Tâm lý oán ghét chế độ mỗi ngày một tăng cao, quần chúng rộng lớn hầu như tuyệt vọng, họ sẵn sàng hy sinh để thay đổi số phận.

c ) Mâu thuẫn, xung đột kịch liệt ngay trong nội bộ hàng ngũ thống trị, phe thống trị mất tin tưởng vào cả chính mình.

d ) Xã hội khao khát một thế lực mới để dẹp loạn.

Tào Tháo sinh ra và lớn lên trong thời đại và xã hội kể trên. Tháo lại gánh trách nhiệm Quốc gia, để làm tròn trách nhiệm thì Tào Tháo tất nhiên phải là hiện thân của một chính trị gia đại tài.

Từ ngàn xưa, nhân danh tư tưởng nhân văn, nhân danh văn minh loài người, nhân danh hạnh phúc, hết thẩy đều đòi hỏi chính trị tuyệt đối phải là một hành động đạo đức. Danh từ đạo đức ở đây khuyên tròn trong hàm nghĩa tuyệt đối, không bạo động, không giết người, không đổ máu, không tù đày, không tranh chấp, không đàn áp. Thường thường nó biến ra tín điều mà những kể thống trị muốn nó tồn tại mãi có lợi cho họ. Đôi lúc, nó là cơ sở cho một lý thuyết không tưởng. Nhưng cũng không ai chối cãi được rằng : “ Ở toàn bộ lịch sử, tranh chấp chính trị bao giờ cũng chỉ là những cuộc chiến tranh ”. Phương pháp làm cho chính trị thành công với phương pháp dẫn chiến tranh đến thắng lợi không khác gì nhau cả, nghĩa là phải có thế lực, có bản lĩnh để vận dụng vũ lực tiêu diệt kẻ thù, kẻ chống lại mình. 

Máu đổ nhiều hay ít, thanh toán nhau, tiêu diệt nhau tàn khốc hay không còn tùy ở những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử. Miễn sao máu đổ để thực hiện một con đường sống cho đa số, cho dân tộc, cho tiến bộ, cho thái bình. Đạo đức biến đổi theo sự đòi hỏi của chính trị. Tại sao nói thế ? Để trả lời, chúng ta hãy đặt thêm một câu hỏi nữa. Đạo đức là gì ? Người đời xưa giảng rằng : “ Đạo đức thị ứng thời chi vật dã ” ( Đạo đức là một vật để ứng phó với thời thế ), ví như mùa nóng mặc áo vải, mùa rét mặc áo lông cừu. Nếu nóng bức mà mặc áo lông cừu, rét mướt mà mặc áo vải là trái ngược với thời. Đạo đức là nguồn gốc nguyên tắc của hành động vậy.

Đời loạn có đạo đức của đời loạn, nghĩa là nhất nhất mọi hành động phải có nguyên tắc mang hiệu lực ứng phó với tình thế loạn. Cho nên Đạo đức của con người chính trị không là gì khác ngoài những hành động chính xác.

Sự nghiệp Tào Tháo là sự nghiệp chính trị, vậy khi phê phán Tháo chúng ta không thể không đứng ra khỏi con người chính trị được.

Trước hết Tào Tháo có nhân nghĩa để vận dụng không ?

Tào Tháo hàng ngàn năm nay vẫn bị hình dung như một kẻ bất nhân bất nghĩa. Lý do của nó chúng ta đã nói ở trên, thiết tưởng chẳng cần nhắc lại dài dòng.

Lưu Bị thường nói : “ Nay khác ta như nước với lửa là Tào Tháo. Tháo cấp ta khoan, Tháo bạo ta nhân, Tháo dối ta thật ”. Như vậy để nêu rõ tính cách hung dữ, tàn nhẫn trá ngụy của Tào Tháo. Ở Tam Quốc diễn nghĩa, dưới ngòi bút của La Quán Trung, nghệ thuật vẽ nên con người tàn ác còn được biểu hiện huy hoàng hơn. Trong tiểu thuyết dù là việc lớn, hoặc những chi tiết nhỏ, chỗ nào Tào Tháo cũng tỏ cái tính cách “ Thà ta phụ người chớ để người phụ ta ”. Lưu Bị thì chỗ nào cũng tỏ cái tác phong “ Thà chết không làm điều phụ nghĩa ” tạo thành sự đối chiếu thật rõ rệt mạnh mẽ, đến nỗi cái tên Tào Tháo được dùng để xưng danh những kẻ gian hùng xấu xa. Tình cảnh Tào Tháo giống y như tình cảnh của Machiavel, nhà văn chính trị Ý đại Lợi của thế kỉ thứ 16, bị người đương thời phỉ báng là : “ tục tĩu khốn nạn ”. Tên Machiavel biến thành hình dung từ Machiavelique để chỉ những hung ác, tồi tệ, giảo quyệt.

Ta đừng lẫn tiểu thuyết với lịch sử, ta cũng không nên lẫn lịch sử gian tạo với lịch sử chân thực. Đó là điều căn bản trước khi bắt tay vào việc đi tìm tòi cái nhân nghĩa của Tào Tháo. Mạnh Tử nói : “ Nghĩa là làm việc đúng mực ” ( nghĩa giả sự chi nghị dã ). Vậy muốn tìm hiểu việc nào có nghĩa hay không, đương nhiên phải xét việc ấy cho thật thấu đáo. Không thể phê phán với thái độ tự cho là đã nhìn thấy sự vật trước khi có ánh sáng.

Xét cho thấu đáo ta sẽ thấy rằng : Ở địa vị và hoàn cảnh Tào Tháo, nhân nghĩa không thể là đem gạo phát chẩn như kiểu mấy đại gia quy Phật, không thể như Sái Ung quỳ khóc thây Đổng Trác, không thể như Nễ Hành đánh trống chửi bậy, không thể như bọn người bất tài ôm Hiến Đế mà than thở .....v.v .....

Phạm vi và cơ sở nhân nghĩa của Tào Tháo rộng lớn hơn rất nhiều. Đó là sinh mệnh của hàng trăm vạn người, sự an ninh cho quốc gia, sự yên bình cho xã hội sau bao tai biến tầy trời : Hoàng Cân, Đổng Trác, Lã Bố, Quách Dĩ, Lý Thôi. Đời sau vì bị bọn chính thống làm lạc hướng, quên mất đi cái nhân nghĩa to tát kia mà chỉ nghĩ đến mấy cá nhân tầm thường : Triệu Ngạn, Dương Bưu, Đổng Thừa, Đổng Phi, Hiến Đế, dùng làm căn cứ kết tội Tào Tháo bất nhân, bất nghĩa.

Nhưng đáng kể nhất vẫn là con người chính trị của Tào Tháo .

Jean Jacques Rousseau viết :

– Chớ lầm tưởng rằng những nhà hiền triết đã biết rõ con người, trái lại họ còn rất mù mờ là khác, vì họ thường xét đoán con người qua những thành kiến của họ, nguy hơn nữa là không có một hạng người nào lại lắm thành kiến bằng những nhà hiền triết.

Vào thực tiễn, các hiền triết bao giờ cũng thất bại bởi vì thế giới của họ thuần những tư tưởng trừu tượng, những nguyên tắc thuần lý, những chân thiện mỹ tuyệt đối. Còn thế giới loài người, sinh hoạt xã hội thì khác hẳn.

Nước Cộng Hòa lý tưởng của Platon, Thành phố Thiên đường của Saint - Augustin và thiên quốc của Thomas Campenella đều chỉ là những giấc mộng, tương tự giấc mộng của vị lương y muốn tương lai y khoa sẽ vượt ngưỡng cửa Tử thần đến cõi bất diệt.

Thực tiễn là bản chất của chính trị.

Thực tiễn là kim chỉ nam của tất cả mọi hoạt động chính trị.

Ở chính trị chỉ có vấn đề lợi hại, thành công, thất bại, tồn tại và tiêu diệt. Muốn thành công, muốn tồn tại cần phải thủ đoạn mưu lược, biết tiến, biết thoái, phải có sức làm việc cần khổ, một nghị lực dồi dào.

Con người chính trị ví như vị kỹ sư sử dụng hết thẩy những gì cần thiết hữu ích để đạt tới kết quả.

Thời Tam Quốc, một mình Tào Tháo là xứng đáng đủ điều kiện cần thiết của một con người chính trị. Bên cạnh Tào Thào là Gia Cát Lượng. Nhưng ở Khổng Minh người ta vẫn thấy vơi vơi, phảng phất tựa hồ mộng tưởng thống nhất cho nước Ý của Dante mà chưa có lý luận của Machiavel bổ túc, chủ nghĩa Xã hội không tưởng của Saint - Simon, Kropotkine mà chưa có tư tưởng khoa học và tư tưởng thực tế đấu tranh. Tóm lại con người chính trị của Khổng Minh phải đứng bên cạnh con người chính trị Tào Tháo thì tính chất chính trị của thời đại Tam Quốc mới hiển hiện, mới thấy rõ chỗ kỳ diệu mà Thánh Thán đã phê phán.

Xem Tam Quốc diễn nghĩa, nghiên cứu Tam Quốc dù tùy theo tâm chất ta yêu hay ghét Tào Tháo, nhưng sâu kín trong lòng, chúng ta ai ai cũng thán phục Tào Tháo và công nhận Tào Tháo đã dạy được chúng ta nhiều điều hơn tất cả những nhân vật khác thuộc thời đại đó.

Tâm lý chính trị của Tào Tháo : hành động trước hết

Tam Quốc diễn nghĩa kể :

– Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Khi uống rượu được vài tuần, Doãn tự nhiên che mặt khóc hu hu.

Các quan giật mình hỏi rằng :

– Nay là ngày sinh nhật của quan Tư Đồ, sao Ngài lại khóc như vậy ?

Doãn thưa rằng :

– Nay có phải là ngày sinh nhật của tôi đâu. Vì có một việc muốn nói với các vị nhưng sợ Đổng Trác sinh nghi cho nên mượn cớ thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Đức Cao Hoàng ngày xưa đánh Tần diệt Sở, bao nhiêu công phu mới nên cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Đổng Trác. Tôi khóc là vì thế.

Các quan nghe nói cũng đều khóc cả.

Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng :

– Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, có khóc chết được thằng Đổng Trác không ?

Doãn ngoảnh lại xem ai, người ấy là Kiêu Kỵ Hiệu Úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng :

– Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, nay người không biết nghĩ báo quốc lại nhăn răng ra mà cười à ?

Tháo nói :

– Tôi cười, có phải cười gì đâu ? Cười là cười các Quan, không biết nghĩ kế gì mà trừ thằng Đổng Trác. Tháo này tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt đầu thằng Trác, treo ở cửa chợ để tạ thiên hạ.

Doãn liền đứng dậy hỏi rằng :

– Mạnh Đức có kế gì tài thế ?

Tháo nói :

– Tôi lâu nay sở dĩ khuất thân nhờ Đổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó đã hơi tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan Tư Đồ có con dao Thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen này vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Đổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì.

Ở thời loạn, mọi người không thể cứ ngồi “ ca cẩm ” mà mong thay đổi tình thế. Toàn bộ trí thức Kinh Đô họp ở nhà Vương Doãn với thái độ than vãn nhù nhờ đã làm nổi bật ngôi sao chính trị Tào Tháo ngay từ lúc bấy giờ, lúc Tháo chưa có một tư bản chính trị nào.

Tào Tháo cười bọn đó, cũng như nhà văn Gorki cười bọn trí thức : “ Bọn họ, số đông đều biết, đều giỏi mơ tưởng một đời sống hạnh phúc cho nhân loại thiên vạn năm, nhưng lại không người nào tự hỏi mình có dám đứng lên xây dựng nó ? ”

Tào Tháo là người cơ trí, lại dám hành động, đương nhiên quyền lãnh đạo sau này phải lọt về tay Tháo. Mặc dầu những bước đầu thất bại. Giết không nổi Trác, Tháo phải bỏ trốn, rồi đi theo liên quân miền Đông lại gặp sự rụt rè của Viên Thiệu, Tháo dám một mình đuổi đánh quân Đổng Trác. Tuy thất bại, nhưng Tháo cũng mở mắt cho mọi người thấy rằng :

– Muốn cứu vãn một tình trạng thì không thể chỉ ngồi nhìn nhau bàn tán, than khóc, thề bồi, mà phải hành động rỏ máu và mồ hôi. Nói suông để tự an ủi, tự làm vơi nỗi bực bội sẽ làm cho người ta cứ nói suông mãi mãi. 

Cái cười của Tào Tháo muốn bảo cho bọn Vương Doãn, hãy quay lại tự vấn, tự xét cái thái độ ăn nhiều, uống nhiều và nói nhiều.


Không mập mờ

Một chính trị gia hay một tập đoàn chính trị phải kiến tạo lập trường rõ rệt. Nhà văn Chekow đã miêu tả sự thất bại qua nhân vật Gusev “ lúc nào cũng bị dầy vò bởi ý tưởng mờ ảo mà hắn ta không định rõ là hắn muốn gì ? ”

Ở Tào Tháo, ngay từ khi bắt đầu hoạt động, Tháo đã đặt mình vào một vị trí nhất định không chân nọ chân kia, chờ đợi như nhiều kẻ khác.

Việc mưu sát Đổng Trác hỏng, mặc dầu đã biện hộ cho khỏi bị nghi ngờ, nhưng chẳng dùng dằng, Tháo ra cửa mượn ngựa trốn thẳng một mạch. Trên sự việc là trốn để tránh họa cho thân, nhưng trên tâm lý Tháo quyết đối lập với Trác. Thoát rồi, Tháo liền thảo hịch đánh Trác, tờ hịch của Tháo được các trấn hưởng ứng, chư hầu hội tụ. Trác thua chạy về phía Tây. Viên Thiệu không đuổi, có ý muốn thỏa hiệp với Trác. Tháo nhất định phá việc đó nên mang một vạn quân cùng các bộ tướng suốt ngày đuổi theo đánh Đổng Trác.

Bình xong giặc Khăn Vàng vùng Từ, Duyện, Tháo được các triều thần gọi về dẹp loạn Lý Thôi - Quách Dĩ. Chủ kiến đã định, tới thành đô, lập tức Tháo quét sạch luôn cả bọn danh sĩ lỗi thời cùng toàn bộ tập đoàn thống trị cũ.

Với Tháo, trên phương diện thủ đoạn cơ mưu chính trị có thể mang những nét quanh co uẩn khúc, nhưng trên phương diện lập trường thì chỉ có một vạch thẳng. Bởi lẽ đó mà những người theo Tháo hoàn toàn tin tưởng ông ta. Đường lối chính trị minh bạch của Tào Tháo đã tạo được cho mình một uy thế chính trị vững chắc.

Cứng rắn

Tào Tháo thường nói : “ Thật là khôi hài nếu con người ta cũng giống như cây đàn, hễ hơi đụng tới thì nó kêu rên lên ”. Chính trị với Tháo đòi hỏi sự tiêu diệt mọi tình cảm lòng thòng vô ích. Thương vay khóc mướn sẽ làm sét rỉ tâm não nhà chính trị.

Đúng thế, kẻ nhạy cảm thường vẫn là kẻ tự phản bội chính mình, cho nên nhà văn Andreev trong tập truyện “ Bẩy kẻ bị chết treo ” đã ca tụng thái độ kiên quyết của một nhà cách mạng qua nhân vật “ Kẻ tử tù ” :

– Ôi ! Nếu mặt con người mà khóa được như cánh cửa lao thất thì mặt người tù ấy tôi thấy bưng kín, lạnh lùng và bên ngoài còn cả chiếc khóa to lớn.

Bàn về công cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo .

Như ta đã biết, xã hội Trung Quốc đương thời mang nhiều mối xung đột quyết liệt :

– Xung đột nội bộ chính quyền trung ương.

– Xung đột giữa các chính quyền địa phương với chính quyền Trung ương,

– Xung đột giữa các lực lượng địa phương với nhau.

– Xung đột giữa lãnh đạo cũ và lãnh đạo đang lên, xung đột giữa phần tử trí thức bình dân và phần tử trí thức danh gia thế tộc.

– Xung đột giữa quần chúng rộng lớn với chế độ cai trị đang đi xuống của chính quyền triều Hán.

– Xung đột giữa khuynh hướng thống nhất và khuynh hướng chia cắt phong kiến.

Tóm lại, Trung Quốc lúc đó đang đi vào cơn khủng hoảng lớn trên chính trị, văn hóa và sinh hoạt, nói chung là khủng hoảng của Trật tự và Tiến bộ ( l’ ordre et le progrès ) . Một đằng trật tự cũ đang ra sức phá hoại tiến bộ. Đằng khác, tiến bộ đang ra sức kiến tạo lực lượng mới để nhoi lên.

Trật tự và Tiến bộ là hai vấn đề cơ bản cho sự sinh tồn của một chế độ. Muốn giải quyết những xung đột trên thì vấn đề chủ yếu là vấn đề chính quyền, bởi vì quyền lực chính trị là chiếc chìa khóa cần thiết để khai thông các lối ngõ bị lấp bít. Quan niệm và học thuyết về chính quyền cũng là quan niệm và học thuyết của diễn tiến lịch sử. Học thuyết chính trị Đông Phương coi trọng quyền bính như thế nào ?

Khổng Tử nói : “ Không búa rìu làm sao đốn cây ? ”

Tuân Tử nói : “ Tạo Phụ là người tài cưỡi xe, nay không có xe có ngựa thì lấy gì để tỏ cái tài năng của mình. Hậu Nghệ giỏi bắn, nay không có cung có tên thì lấy gì để tỏ cái giỏi của mình ”.

Quỷ Cốc Tử nói : “ Công việc muốn tốt thì phải chế ngự được người chứ không để người chế ngự ta. Muốn chế ngự người, tất phải nắm được quyền, cho nên mới có câu đại trượng phu lấy quyền để mà sai khiến chúng nhân vậy ”.

Quyền bính đối với chính trị cần thiết như chiếc búa với người tiều phu, hay nói khác đi, chính trị và quyền bính chẳng khác chi con Lang con Bối sống dựa vào nhau, con này rời ra con kia chết, con kia rời ra con này chết, chính trị và quyền bính mang tính chất cộng sinh ( Symbiose ) .

– Quyền bính là gì ?

Theo cổ nhân : “ Quyền thị chúng lực chi yếu, cương chi cương, y chi lãnh ”, nghĩa là quyền ví như đầu giềng của chiếc lưới, cổ của chiếc áo, chủ chốt của mọi lực lượng. Khi ta cầm vào cổ áo, ta sẽ mang chiếc áo dễ dàng, ta cầm được đầu giềng của lưới, ta sẽ điều khiển được chiếc lưới dễ dàng, nhẹ nhàng.

– Làm thế nào để có quyền ?

– Đương nhiên phải tranh thủ để có chính quyền.

Tào Tháo đã tranh đoạt chính quyền ra sao ? Tư tưởng hậu thế sau khi bị chính thống hóa và bị ảnh hưởng bởi Tam Quốc diễn nghĩa đã khinh ghét Tào Tháo, chú trọng và căn cứ vào cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo. Đó là tất cả vấn đề mà chúng ta sẽ bàn tới những dòng dưới đây.

Tranh thủ chính quyền tự cổ xưa đến nay, từ Đông sang Tây đều có 2 cách thức : “ bạo động và không bạo động ”. Xét trong lịch sử thì cách thức bạo động hay cách thức không bạo động đều mang nhiều hiện tượng khác nhau. Tỉ dụ : Nhượng quyền như Nghiêu Thuấn, thoán đoạt như Hồ Quý Ly, mưu sát như Brutus, thông qua nghị hội như các cuộc giải tán nội các ở các nước Tây phương ngày nay, dùng chiến tranh xâm lược, chiến tranh giải phóng v.v ..... Những hiện tượng khác nhau ấy phải tùy theo điều kiện, tình hình và tính chất của đấu tranh cao hay thấp của lịch sử mà phát hiện.

Cổ học Trung Quốc quan niệm về cả hai cách thức bạo động và không bạo động như sau :

a ) Dùng Đức.

b ) Dùng Công.

c ) Dùng Mưu.

d ) Dùng Vũ.

Nhưng cổ nhân thường trọng lối khéo léo hòa bình dành chính quyền hơn là dùng lối bạo tàn để cưỡng đoạt.

– Dùng Đức là thế nào ?

– Như vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn vì thấy Thuấn được dân yêu chuộng.

– Dùng Công là thế nào ?

– Như vua Vũ trị thủy để quy tụ lòng ngưỡng mộ của muôn dân.

– Dùng Mưu là thế nào ?

– Như vua Thang đánh bại vua Kiệt, dùng Nữ Hoa và Khúc Nghịch làm tay sai để mê hoặc vua Kiệt mà che đậy âm mưu của mình.

– Dùng Vũ thì thế nào ?

– Như Hán Cao Tổ và Hạng Võ phát động chiến tranh chống Tần.

Chữ Vũ ở đây nên hiểu theo nghĩa bạo động ngược lại với bất bạo động. Còn nếu hiểu rộng lớn hơn thì trong Vũ cũng phải có đủ cả Đức, Công, Mưu thì mới quyết thắng được. Hơn nữa xét cho cùng, mọi nút chuyển trọng đại của lịch sử chưa hề có lần nào được giải quyết mà không xảy ra bạo động.

Bạo động hay không bạo động đều tùy thuộc những điều kiện, tình hình, tính chất lịch sử, vì vậy ta không thể kết tội bạo động cũng như nhất định không bạo động. Không bạo động từ bấy đến giờ vẫn chỉ là một ước mơ chứ chưa thành một quy luật. Chẳng phải bất cứ thời thế nào cũng cho phép nhà chính trị dùng Đức, dùng Công.

Phê phán Tào Tháo, có người viết :

– Sinh hoạt chính trị của Tào Tháo gồm trước sau hơn bốn mươi năm thì đã quá 30 năm Tào Tháo ngụp lặn trong chiến tranh.

Lời phê phán trên đây cho chúng ta thấy cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo là cuộc tranh đoạt bằng vũ lực, lấy chiến tranh giải quyết vấn đề.

Trở ngược lại từ loạn Khăn Vàng, Hoạn quan, Ngoại thích đến Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ, ta thấy gì ?

Hết thẩy chỉ là những âm mưu tranh ngôi đoạt vị của những thế lực chống nhau của cùng một “ gia thuộc ” của trật tự cũ. Do đó ta không thể gọi đấy là những cuộc đấu tranh giành chính quyền vì bản chất của các cuộc tranh giành ấy không đặt trên nền tảng chính quyền. Bởi thế ta mới thấy những hiện tượng rất khôi hài mà Tam Quốc diễn nghĩa thuật lại như sau :

Hà Hậu nói : “ Chúng mày đừng lo, ta sẽ bảo hộ cho ”. Bèn giáng chỉ triệu Hà Tiến vào cung khẽ bảo rằng : “ Anh em ta hàn vi từ thuở nhỏ, nếu không có bọn Trương Nhượng sao có phú quý ngày nay ? Nay thằng Kiển Thạc bất nhân đã bị giết rồi, sao anh còn tin lời người ta nói mà toan giết cả bọn hoạn quan ? ”

Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê thấy phe Đổng thái Hậu thất bại bèn đem vàng ngọc đút lót em trai Hà Tiến là Hà Miên và mẹ Tiến là Vũ Dương Quân nhờ nói khéo với Hà thái Hậu che chở cho. Bởi vậy mười tên Thường thị lại được tin dùng.

 ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... ..... .....

Trác hỏi Ngu Phu rằng :

- Ai xui mày làm phản ?

Phu trợn mắt thét mắng :

– Mày không phải là vua tao, tao không phải là tôi mày, sao gọi là phản được. Tội mày đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết mày. Tao tiếc rằng không xé nhỏ được xác mày ra để tạ thiên hạ.

Trác tức lắm, sai đem Ngu Phu ra mổ. Phu cứ mắng chửi Đổng Trác đến lúc chết.

Hiến Đế khóc nói :

– Trẫm bị hai thằng giặc ấy khinh nhờn đã lâu. Nếu giết được thì may lắm.

Bưu tâu rằng : “ Tôi có một mẹo, trước làm cho hai đứa tự tàn hại lẫn nhau rồi sau mới vời Tào Tháo đem binh vào giết, quét sạch lũ giặc để yên triều đình ”.

Hiến Đế hỏi : “ Kế ấy là kế gì ? ”

Bưu tâu : “ Tôi nghe vợ Quách Dĩ rất hay ghen, sai người đi lại với vợ nó, dùng kế phản gián, hai thằng giặc tất giết lẫn nhau ”.

Vua liền hạ chiếu phong Lý Thôi làm Đại tư Mã. Thôi mừng nói rằng : “ Phúc này thật là thần thánh giáng cho ta. Lạy thánh vạn lạy, có cầu cúng Ngài cũng có hơn ”.

Lý Nhạc và Hàn Tiêm lại có hơn hai trăm đầy tớ bộ hạ, nào thầy cúng nào thầy thuốc. Hai đứa tâu cho làm Hiệu úy Ngự sử cả. Khắc ấn không kịp, lấy dùi vạch gỗ ra làm ấn chẳng ra thể thống gì cả nữa.

Nền tảng chính quyền là gì ?

Nhiều người vẫn quan niệm chính quyền qua những yếu tố “ nổi ” mà sơ sót những yếu tố “ chìm ”, chẳng hạn như nhìn thấy ở chính quyền những yếu tố : vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc, mà không nhìn thấy tiến bộ của xã hội, uy thế chính trị, uy thế xã hội và tư tưởng nhân sinh. Nhà triết học Aristote viết : “ Người là một động vật chính trị ”. Sở dĩ người là một động vật chính trị là vì người biết quây quần kết tụ thành từng tập đoàn, các tập đoàn lại kết tụ thành xã hội và cứ phát triển rộng lớn không ngừng.

Xã hội càng rộng lớn thì tính cách kết tụ càng phức tạp, trong đó có những tập đoàn kết tụ qua kinh tế, học thuật, tôn giáo v.v .....

Các tập đoàn ấy do sự cần thiết của tiến bộ, phát triển và sinh tồn nên có hai bộ mặt sinh hoạt trái ngược hẳn : Một mặt liên hợp sống chung và một mặt đấu tranh lẫn nhau. Hai bộ mặt sống chung và đấu tranh cần phải có một sự điều chỉnh, nếu không xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, cướp bóc, hà hiếp. Nhu cầu điều chỉnh đã tạo ra chính quyền. Như vậy, nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền là phải kiến lập được trật tự vững chắc. Muốn kiến lập được trật tự vững chắc, chính quyền cần nắm đủ các yếu tố : vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc v.v ..... Những yếu tố này được kể làm những phương tiện để thực hiện trật tự. 

Nhưng ta không được quên rằng xã hội luôn luôn chuyển mình, tiến bộ, lẽ dĩ nhiên chính quyền cũng phải mang nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu tiến bộ của xã hội, nếu chính quyền và trật tự đi thụt lùi so với nhu cầu tiến bộ, chẳng chóng thì chày chính quyền và trật tự sẽ bị tiến bộ quật ngã để rồi hình thành ra một trật tự mới hơn, tiến bộ hơn. Cho nên muốn thỏa mãn nhu cầu tiến bộ của xã hội, chính quyền tự nó có sẵn uy thế chính trị, uy thế xã hội, uy thế tư tưởng, nghĩa là lãnh đạo được sự chuyển mình tiến bộ của xã hội trên các mặt. Vậy ta có thể nói gọn lại rằng chính quyền mang hai nhiệm vụ :


1 ) Giữ gìn trật tự

2 ) Thúc đẩy tiến bộ


Ngày nào mà trật tự và tiến bộ không đi đôi với nhau được nữa, phát sinh khủng hoảng, ngày đó xã hội rơi vào tình trạng loạn lạc, tranh chấp.

Trung Quốc đến cuối thời Đông Hán thì xã hội bắt đầu một thời kỳ phân loạn dài ; Trật tự, tiến bộ, kinh tế, tư tưởng v.v ..... hoàn toàn bị xáo trộn.

Vương quyền tập trung nay trở thành một hệ thống thế lực cho ít người. Chính quyền bị lũng đoạn, tiền bạc nhân lực bị coi là phương tiện xa xỉ, dâm dật. Liêm sỉ theo đó mà tiêu tán. Trong bức thư Lý Lăng gửi Tô Vũ, sách thế truyền có chép : Bọn quan lại phá hoại được phong làm Vạn hộ Hầu, bọn thân thích tham nịnh được phong làm Lang tể miếu.

Thế lực bọn hoạn quan, ngoại thích phát triển, đạo đức càng đi xuống.

Đạo đức sa đọa không chỉ ở trên lĩnh vực kinh tế. Nguy hại hơn, nó còn hoành hành cả trên lãnh vực giáo dục, giảng học, khiến cho mọi giá trị càng điên đảo. Đó mới kể về phương diện đạo đức, còn phương diện sinh sống thế nào ?

Kể từ lúc Hán triều suy nhược, kinh qua ngoại thích chuyên chính, xã hội chịu nhiều tai họa : lũ lụt, hạn hán, loạn Tây Khương, hoạn quan loạn triều chính. Bọn hào môn ngoại thích, hoạn quan và địa chủ liên kết trong khi giai tầng trung sản bị phá sản. Giầu nghèo mỗi ngày một xa cách, hận thù, nô tỳ mỗi ngày gia tăng. Phản loạn bắt đầu. Hán triều mấy lần ban chiếu, có những đoạn nhận tội như : “ Bây giờ quý thích cận thần xa xỉ phóng túng vô độ ” hay “ người sống mất hết tư nghiệp, người chết phơi thây giữa đường ”. Mấy chiếu thư xuống làm sao biến đổi được cục diện thối nát, cho nên xã hội càng ngày càng ác họa. Sử gia Trọng Trường Thống ghi nhận :

– Nhà bọn hào có hàng trăm nóc, ruộng tốt khắp nơi, nô tỳ thì ngàn người, xe ngựa chạy bốn phương, hàng hóa châu báu vô số, thê thiếp tính cả trăm. Dưới bàn tay tham ô của bọn hào môn, nguòi dân cày đói khổ, phần tử trí thức cơ cực. 


Trọng Trường Thống kết luận với câu : “ Tám phương đê vỡ, trên dưới rữa nát như cá thối ” để nói cái kết quả chính trị chuyên chính của bọn hoạn quan, ngoại thích. Xã hội hỗn loạn ấy tất nhiên mong mỏi một chính quyền có khả năng tái lập trật tự mà không ngăn chặn tiến bộ. Xã hội Đông Hán chẳng khác nào chuồng ngựa Augias, kẻ nào dọn nó cần có sức mạnh của Hercule. Người xung phong cáng đáng công việc là Tào Tháo cùng tập đoàn của mình, rồi đến Tôn Sách, Tôn Quyền bên Đông Ngô, và sau nữa đến Khổng Minh, Tưởng Uyển, Khương Duy bên Tây Thục.

Vấn đề chiếm đoạt chính quyền có 2 điều chủ yếu : Chiếm và giữ. 2 điều chủ yếu ấy đòi hỏi lực lượng chính trị có 2 khả năng :

a ) tác chiến chiếm đoạt

b ) điều khiển trật tự trên một hoàn cảnh mới, hay nói khác đi là củng cố chính quyền sau cơn đại biến động.

Ta hãy nói đến khả năng “ Chiếm và phát triển chính quyền ” của Tào Tháo. Trước khi đem quân về Kinh đô, sinh hoạt chính trị của Tào Tháo thiên về khuynh hướng âm mưu đầy tính chất phiêu lưu. Tam Quốc diễn nghĩa cho chúng ta biết các việc :

1 ) Đứng về phe Hà Tiến chống thế lực hoạn quan. Hai lần bầy mưu can gián Hà Tiến đều bị Tiến mắng đuổi.

2 ) Liên kết với đám triều thần định hành thích Đổng Trác.

3 ) Dựa vào thế lực Viên Thiệu, thành lập liên quân miền Đông đánh lực lượng Tây Lương.

Tất cả các hoạt động phiêu lưu trên chỉ đem lại cho Tào Tháo thất bại ê chề và nhục nhã. Tháo tỉnh ngộ và quyết tâm đi vào con đường lớn, không chạy theo những âm mưu vặt nữa. Tháo đã hiểu rằng : Lịch sử không phải là kết quả của may rủi. Làm lịch sử, làm chính trị nếu không nghiên cứu để nhận thức đúng bản chất xã hội, bản chất xung đột thì suốt đời sống bám, suốt đời không nhảy vào địa vị lãnh đạo được. Chính quyền không phải là ngôi thứ cá nhân. Chính quyền là mục tiêu cao nhất cho tất cả mọi hoạt động chuyển vận lịch sử. Muốn có chính quyền thì phải có kế hoạch, phương pháp tranh thủ đúng, bởi vì chính quyền là kết quả của đường lối chính trị đúng đắn, chính xác. Quyền lực chính trị không phải là một vật mà trong một lúc, đêm này qua sáng hôm sau là có đầy đủ cả. Nó tiến từ sơ khởi đến kết cục, từ không đến có, từ vai phụ tiến lên vai chính, từ cục bộ tiến đến toàn bộ. Nghĩa là nó phải trải qua một thời kỳ sửa soạn, xây dựng, bảo vệ, nuôi dưỡng, và trưởng thành.

Cơ hội đầu tiên đến với Tào Tháo trên con đường lớn là việc Chu Tuấn tiến cử Tào Tháo ( lúc ấy đang làm Thái thú Đông Quận ) với Lý Thôi, Quách Dĩ cho đi dẹp giặc Khăn Vàng ở vùng Thanh Châu, Tháo đã biết biến cơ hội đó thành một lợi thế, tạo thành cái vốn chính to tát cho mình. Tam Quốc diễn nghĩa kể như sau :

“ Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm hôm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Đông Quận, sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc. Tháo vâng chiếu chỉ họp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương. Pháo Tín đi vào đất giặc, bị giặc giết chết. Còn Tào Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc quy hàng tới vài vạn người. Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu, giặc hàng đến đấy. Mới được hơn một trăm ngày, chiêu an được hơn bốn mươi vạn quân hàng. Vừa đàn ông, đàn bà kéo lại theo Tháo hơn một triệu người. Tháo tuyển lấy những quân tinh nhuệ, đặt riêng một cánh quân gọi là binh Thanh Châu, còn bao nhiêu đuổi về cho làm ruộng. Từ đó uy danh Tào Tháo mỗi ngày một lừng lẫy. Tiếng đồn về đến tận kinh, triều đình phong cho Tháo làm Chấn Đông tướng quân. ”

Nhưng con đường lớn mà Tào Tháo theo đuổi đâu phải chỉ là cái chức Chấn Đông tướng quân. Chức đó chẳng qua cũng chỉ là cái bàn đạp để cho Tào Tháo tiến quân về kinh đô Lạc Dương mà thôi. Chủ ý Tào Tháo đã định, tuy nhiên muốn thực hiện việc nắm trọn chính quyền thì việc cần thiết là phải làm sao kiến tạo nhanh chóng một tổ chức lãnh đạo thay thế cho toàn bộ tổ chức lãnh đạo cũ. Kinh nghiệm của Đổng Trác, Vương Doãn, Lý Thôi, Quách Dĩ còn sờ sờ ra đấy. Cho nên sau khi nhận chức Chấn Đông tướng quân, Tháo liền tiến hành gấp rút việc chiêu mộ người tài trong thiên hạ, quy tụ đại bộ phận phần tử trí thức với phương châm : “ Hiền tại vị , năng tại chức ” , tuy nhiên chiếu theo nhu cầu thực tiễn mà điều kiện Tháo chú trọng là tài năng.

“ Tào Tháo ở Duyệt Châu chiêu mộ thu dùng những người hiền sĩ. Ở làng Dĩnh Ầm châu Dĩnh có một nhà hai chú cháu cùng đi theo Tháo. Người chú họ Tuân tên Úc, tên chữ là Văn Nhược, nguyên là con Tuân Côn. Úc trước đã theo Viên Thiệu, nay bỏ Thiệu theo Tháo. Tháo cùng Úc nói chuyện xong rồi nói rằng : ” Người nầy là Tử Phòng của ta đây ”, rồi cho làm Hành quân Tư Mã.

Người cháu tên là Tuân Du, tên chữ là Công Đạt, trước đã làm Hoàng môn Thị Lang. Sau bỏ quan về làng, nay theo chú sang với Tào Tháo, cho làm Hành Quân Giáo thụ.

Tuân Du lại nói với Tào Tháo rằng :

– Tôi nghe ở Duyệt châu có một người hiền sĩ vốn ở Đông An, họ Trình tên Dục, tên chữ Trọng Đức, nhưng không biết bây giờ ở đâu. Người ấy Chúa công nên dùng.

Tháo nói : “ Tôi biết tiếng Trình Dục đã lâu ” .

Nói rồi sai ngay người về tận Đông An để hỏi cho được, thấy họ bảo rằng : “ Trình Dục đang ở trong núi đọc sách ” . Tháo cho mời ra. Trình Dục đến bái kiến, Tháo mừng lắm.

Dục lại bảo với Tuân Úc rằng :

– Tôi là người quê kệch học hành chưa được mấy, không xứng đáng với sự tiến cử của ông. Nay tôi biết có một người cùng làng với ông tên là Quách Gia, tên chữ là Phụng Hiếu, thực là hiền sĩ đời nay, sao ông không triệu ra .

Úc sực nhớ đến nói rằng : “ Suýt nữa tôi quên người ấy ”.

Úc nói chuyện ngay với Tào Tháo. Tháo cho mời Quách Gia. Gia đến Duyệt châu bàn việc thiên hạ với Tào Tháo, rồi lại tiến cử Tháo một người nữa dòng dõi vua Quang Vũ ở Thành Đức, họ Lưu tên Hoa, chữ là Tử Dương. Tháo cho mời Hoa đến, Hoa lại tiến cử hai người nữa, một người ở Sương ấp họ Mãn tên Sủng, tên chữ là Bá Ninh, người nữa ở Vũ Thành họ Lã tên Kiền, tên chữ là Tử Khác. Tháo cũng biết tiếng hai người ấy cho nên đặt ngay cho làm Trung Tùng Quân Sư.

Được ít bữa lại có một tướng nữa đem vài trăm quân mã lại xin theo với Tào Tháo, người ở Cự bình tên là Vu Cấm, tên chữ là Văn Tắc. Tháo thấy người ấy cung mã giỏi, võ nghệ hơn người, cho làm Điểm quân Tư Mã.

Một hôm Hạ Hầu Đôn lại dắt một người cực lớn ra mắt Tào Tháo. Tháo hỏi ai, Đôn thưa rằng :

– “ Người này ở Trần Lưu, họ Điển tên Vi. Sức khỏe không ai địch nổi. Trước Vi đã theo Trương Mạc, sau nhân có việc bất hòa với đầy tớ Mạc, giết vài người rồi trốn vào núi ở. Tôi đi săn gặp Điển Vi đang đuổi hổ nhảy qua suối, nay tôi đem về đây dâng chúa công.

Tháo nói : Ta xem người này tướng mạo khôi ngô, tất người thực khỏe.

Đôn lại nói : “ Điển Vi từng báo thù cho bạn, giết người xách đầu ra chợ, hàng mấy trăm người không dám đến gần. Y sử dụng hai ngọn kích sắt, nặng tám mươi cân cắp ngồi trên ngựa, vung múa nhẹ như bay.

Tháo lập tức sai Điển Vi ra thử kích. Vi cắp đôi kích lên ngựa đi lại nhẹ nhàng như bay. Bỗng bấy giờ có cơn gió to, lá cờ lớn trồng dưới trướng lung lay sắp đổ. Quân sĩ xúm xít lại ôm giữ không nổi. Điển Vi thấy vậy, từ trên ngựa nhẩy xuống quát to một tiếng đuổi quân sĩ lui ra, rồi một tay nắm chắc lấy, cột cờ đứng im phăng phắc giữa luồng gió.

Tháo thấy thế mừng lắm nói rằng : Người này thực là Ác Lai ngày xưa đây. Liền cho làm trướng tiền đô úy, cởi ngay áo đang mặc, thêm một con ngựa cực tốt và một bộ yên chạm đem cho Điển Vi. Từ bấy giờ bộ hạ Tào Tháo, văn có người tài, vũ có tướng giỏi, uy danh lừng lẫy cả Sơn Đông.

Hàng mấy ngàn năm trước, Quản Trọng nói : Anh hùng giả, quốc chi cán, thứ dân giả, quốc chi bản. Đắc kỳ cán, thâu kỳ bản, tắc chính hành nhi vô oán hĩ ( anh hùng là cốt cán của một nước, dân chúng là gốc rễ của một nước. Dùng được cốt cán của một nước, thu phục được gốc rễ thì việc thi hành chính sự không bị oán hận ) .

Ngày nay chính trị gia Tây Phương cũng nói : Ce qu’un véritable chef doit faire ce sont non des actes, mais des hommes, des hommes qui le prolongent dans l’ espace et dans le temps ( lãnh tụ tài giỏi không phải chỉ biết hành động thôi mà còn phải biết dùng người, thu phục người bởi vì chỉ có người mới khiến cho vị lãnh tụ có mặt ở bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào ) .

Hai danh ngôn kim cổ chứng minh tài năng chính trị của Tào Tháo hành động tại Duyên Châu.

Bây giờ ta bàn đến khả năng giữ và củng cố chính quyền của Tào Tháo.

Làm chính trị có hai điều tối kỵ là ngắn hơi và dềnh dàng. Trong sự nghiệp chính trị : “ Đáng kể nhất không phải là bắt đầu mà là làm đến cùng ”. Dẹp loạn bắt đầu xây dựng lực lượng, rồi tạo uy thế, nắm quyền chính chưa đủ, còn cần củng cố vững vàng, phát triển trật tự mới, thúc đẩy tiến bộ. Triều Chính Đông Hán đổ nát, tập đoàn Khăn Vàng dấy lên, rồi Đổng Trác, Vương Doãn, Viên Thiệu, đến Lý Thôi, Quách Dĩ thay nhau nắm quyền chính, nhưng tất cả đều không giữ nổi chính quyền để củng cố và phát triển. Tất cả đều quan niệm chính quyền như một thế lực, một phương tiện để hưởng thụ, do đó hành động của cả bọn rất ngắn hơi, nghĩa là không biết hướng nào để làm đến cùng. Riêng Viên Thiệu thường mắc phải cái bệnh dềnh dàng, kéo dài sự việc lê thê chẳng dứt khoát bề nào bao giờ. 

Tào Tháo trái lại, ông cưa mạch nào đứt mạch ấy, liên hợp hay đấu tranh đối với Tháo chỉ là những thủ đoạn để thực hiện đến cùng cho một đường lối chính trị mà Tháo cùng tập đoàn của ông quyết định theo đuổi. Kéo quân về Lạc Dương dẹp loạn, Tháo không phí bao hơi sức mà đã loại ra dễ dàng lực lượng chính trị quan trọng lúc bấy giờ là phe cánh Đổng Trác. Nhưng trước mắt Tháo đã hiểu ngay ra kẻ địch đáng sợ trên quân sự là lực lượng Viên Thiệu, và trên chính trị là các vấn đề thuộc nội bộ. Tào Tháo cũng nhìn thấy ngay nhược điểm của chính mình. Tháo bèn thực hiện ngay phương châm của Tôn Tử : “ Trước hãy tìm cái thế không thể bại được ” nên Tháo nghe ngay lời của Đổng Chiêu, thiên Triều đình về Hứa Đô để đề phòng mọi bất trắc. 

Ở Hứa Đô, Tháo đưa công tác chỉnh đốn nội bộ lên hàng đầu về mặt kiến thiết. Xây dựng sửa sang nhà cửa, cung miếu, lập kho tàng. Về mặt văn học : lập nền tảng giáo dục mới. Về mặt hành chính : định lại các quan tước phẩm vị, tạm thời dùng đám triều thần cũ và cài răng lược những người mới để chuẩn bị thay thế dần dần. Về mặt xã hội : Tháo đề ra ba phương châm : Trừ gian - Cấm dâm - Trừng tham. Về mặt kinh tế : kiểm soát và định lại thể thức tô thuế đất ruộng.

Làm cho người sợ gọi là uy, làm cho người chịu gọi là thế. Hợp cả uy lẫn thế lại tức là lực lượng vậy. Có quyền mà không có lực thì quyền rỗng, có lực mà không có quyền thì lực hẫng. Uy với thế cũng vậy. Uy là thể mà thế là dụng. Có uy không có thế cũng vậy. Giống như hổ về bình nguyên làm kẻ thất thế, đã thất thế thì lấy gì để bồi đắp uy cho lớn rộng. Cho nên Tào Tháo lúc nào cũng lo kiến lập uy thế. Cứ hễ mỗi lần hành động ra uy thì ông lại dựa ngay vào đấy để phát triển thế.

Đánh giặc Khăn Vàng ở Duyên Châu là lập uy. Chiêu mộ hiền sĩ là tạo thế. Rút gươm chém Trương Liêu là lập uy, nghe lời Lưu Bị, Quan Vũ tha Trương Liêu, khiến Liêu cảm phục là tạo thế.

Machiavel viết trong quyển Le Prince rằng : “ Les Etats subitement formés manquent de racines profondes et le premier orage risque de les renverser ” ( chính quyền mới xây dựng thiếu rễ sâu sẽ rất dễ bị lật nhào ngay khi gặp cơn giông bão đầu tiên ) .

Chính quyền mới lập của Tào Tháo nhờ uy và thế tiến hành song đôi đã vững như bàn thạch.

Vụ án “ chiếu chỉ Đai áo ” vỡ ra, Tào Tháo thẳng tay đàn áp, bọn chính thống thường coi việc đó như một bằng chứng hiển nhiên về tính gian hùng tàn ác của Tào Tháo. Các bạn độc giả, chắc cũng có bạn muốn phán xét phân minh việc làm của Tào Tháo, vậy xin bạn hãy đọc lại lời của Machiavel : “ Cruauté bénie, si elle tue dans l’ oeuf les désordres, gros de meurtres et de rapines, que trop de pitié eût laissé s’ élever ? Ces désordres blessent la société tout entière, tandis que les rigueurs ordonnées par le prince ne tombent que sur des particuliers. ( Hành động tàn ác đáng ban phước lành khi nào nó tiêu diệt được từ trong trứng sự hỗn loạn chứa đầy chém giết và cướp bóc. Hành động tàn ác ấy vượt xa hẳn tình thương nếu tình thương để cho hỗn loạn dấy lên. Hỗn loạn sẽ tàn phá cả xã hội, còn những biện pháp cứng rắn chỉ giết vẻn vẹn mấy cá nhân ) . Machiavel kết luận : protéger d’ abord la société, voilà où git la vraie clémence d’ Etat. ( Bảo vệ xã hội trước hết, đây mới chính là lòng nhân từ của nhà nước ) .

Bọn chính thống đời sau cũng thường mang đối chiếu vụ giết Đổng Phi, Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Cát Bình với vụ tàn sát của Đổng Trác giết Trương Ôn, vụ chém giết ở Duyện Châu, Thanh Châu với vụ tàn sát ở Lạc Dương. Sự thật các vụ kể trên chẳng mang một điểm tương tự nào cả, dù ta xét chung trên quan điểm chính trị hay trên quan điểm đạo đức.

Đứng trên quan điểm chính trị, Đổng Trác thua xa Tào Tháo một trời một vực. Việc làm của Tào Tháo nhằm mục đích lập uy, còn việc làm của Trác hoàn toàn mang tính cách khủng bố. Cho nên Tào Tháo chấm dứt rất chóng bất cứ sự kiện nào có máu chảy người chết, còn Trác kéo dài ra để làm trò vui, để thỏa mãn tính khát máu thích dọa nạt. Tháo phân định dứt khoát người có tội kẻ không. Còn Trác thì miên man chẳng biết chỗ nào là bờ bến khiến cho hết thảy mọi người ngồi đứng không yên. Machiavel gọi lối hành động loại Đổng Trác là tàn ác thú tính và tàn ác vụng về ( cruautés mal pratiquees ) .

Đứng trên quan điểm đạo đức, vụ chém giết ở Duyên Châu, Thanh Châu là kết quả của chiến tranh. Còn vụ tàn sát ở Tràng An là kết quả của cuộc đàn áp bắt di dân. Tam Quốc chí diễn nghĩa đã viết rõ ràng tự sự như sau :

Lý Nho xui Đổng Trác :

– Nay tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giầu, nên tịch thu lấy của cải phát cho quân.

Trác lập tức sai năm ngàn quân thiết kỵ đi bắt những người nhà giàu ở Lạc Dương, cả thảy mấy ngàn họ, mỗi người cầm một lá cờ lên đầu để bốn chữ : “ Phản thần nghịch đảng ” rồi đem ra ngoài thành chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch. Lý Thôi, Quách Dĩ bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Tràng An, cứ mỗi đoàn dân lại cho một đội quân đi áp, người chết ở dọc đường không biết bao nhiêu mà kể. Đàn bà con gái đã vừa nhọc vừa đói khát đau đớn trăm chiều, lại còn bị quân lính hãm hiếp, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm, đằng sau có quân lính đốc thúc, quân lính còn chém giết người ngay giữa đường.

Lúc Trác đi, sai phóng hỏa đốt cả cửa nhà dân ở. Trác lại sai Lã Bố khai quật các mồ mả để lấy vàng bạc châu báu.

Bàn về cách sử dụng quyền uy của Tào Tháo

Quyền uy là tất cả những gì quý báu đối với chính trị. Do quyền uy mà ta có thể sinh hay sát, cho hay đoạt, phải hay trái, phúc hay họa, thao túng hay khống chế cả người lẫn vật. Tuy nhiên cũng do quyền uy mà chính trị gia hay chế độ bị oán ghét hận thù hoặc được kính nể yêu mến, không biết sử dụng thì bị oán ghét hận thù. Cổ nhân đối với việc sử dụng quyền uy đặt ra ba điều :

a ) Pháp

b ) Lệnh

c ) Thưởng phạt

Pháp là cách thức tổ chức của chế độ, pháp cũng là kỷ cương của chế độ đặt ra để điều chỉnh sinh hoạt toàn bộ xã hội. Chữ Pháp ở đây nếu đem so với pháp luật thì hàm nghĩa nó rộng lớn hơn, vì pháp luật chỉ là những điều lệ được ghi rõ ràng để quy định quyền hạn, vị trí, phạm vi cho mỗi hành động. Danh từ Pháp theo nghĩa triết học chánh trị phương Đông ngoài những điều lệnh rõ ràng ấy còn bao gồm cả một số nguyên tắc sống mà đại đa số người trong xã hội nhìn nhận trên tâm lý. Sách cổ viết : “ Pháp là công cụ để trị thiên hạ. Không có Pháp tất sẽ mất nhịp độ, mất nhịp tức là hỗn loạn vậy ”.

Tào Tháo tiến quân về Lạc Dương, tình hình hỗn loạn tơi bời. Ông đã chế định được pháp nghiêm minh để ngăn chặn sự loạn. Lúc đánh Duyện Châu cũng như lúc đến Lạc Dương, nguyện vọng của nông dân cũng như lòng mong mỏi của các phần tử trí thức đang lên đều được toại ý. Ta có thể căn cứ vào việc cải biến nhanh chóng các đám quân nổi loạn ở Thanh Châu, Duyện Châu cùng việc Đổng Chiêu ra sức giúp Tào Tháo bình định Lạc Dương để chứng minh.

Lệnh là hình thức biểu thị của pháp. Lệnh ví như sấm sét, gió bão để cổ võ vạn vật cho nên lệnh phải nghiêm, không mờ ám, không bất nhất sáng thay chiều đổi.

Việc tôn trọng lệnh luật của Tháo, trong đời Tam Quốc chẳng mấy ai sánh kịp. Rất nhỏ nhặt như việc con ngựa của Tháo hoảng hốt dẫm lên ruộng lúa, Tháo đã tự cắt tóc để thị chúng, ta có cho đấy là một thủ đoạn thì thủ đoạn đó cũng không ngoài mục đích hướng vào sự tôn trọng luật lệnh.

Trong khi Trương Phi say rượu đánh Tào Báo để Lã Bố cướp mất Từ Châu và Quan Công nóng nảy phá tan cả một chính sách Liên Ngô thì Tam Quốc Chí không cho ta thấy mảy may biện pháp trừng phạt của Lưu Bị đối với hai người này dù rất ít.

Về vấn đề thưởng phạt, Hoàng Thạch Công nói :

– Công nhỏ không thưởng, tất công lớn không có. Oán nhỏ không tha tất oán lớn nảy sinh. Thưởng không làm cho người phục, phạt không khiến cho người vui, tất bị phản. Thưởng kẻ vô công, phạt kẻ vô tội, cái nguy đến sau lưng.

Sách Quân Cấm viết :

Hương nhĩ chi hạ tất hữu tử ngư

Trọng thưởng chi hạ tất hữu tử phu.

( Dưới mồi thơm chắc có cá chết. Biết trọng thưởng, người sẽ vì ta mà hy sinh ). 

Hàn phi Tử nói : “ Ái đa giả tắc pháp bất lập, uy quả giả tất hạ xâm thượng ”. ( Nuông chiều tất Pháp khó thi hành. Uy ít tất dưới nhờn ).

Độc giả Tam Quốc diễn nghĩa chắc đã có nhiều dịp so sánh Tào Tháo với Lưu Bị về đức tính này. Sự dung túng của Lưu Bị đối với Quan, Trương gieo mầm cho việc thất thủ Kinh Châu sau này.


Kết luận

Trong các lãnh tụ chính trị thời Tam Quốc, Tào Tháo là người nhận rõ bản chất thời đại hơn ai hết. Ông hiểu nếu ly khai chiến tranh thì mọi vấn đề không thể giải quyết. Ông phân biệt nổi chủ thế của chiến tranh là gì. Kẻ địch nội ngoại, trước sau khiến cho chiến tranh mang những nội dung khác hẳn nhau. Do đó mặc dầu ông luôn luôn phát động chiến tranh, nhưng chiến tranh chiến lược của ông đều được lồng vào trong một nhu yếu chính trị từng lúc.

Chiến tranh để tàn sát, để áp chế, để gây loạn, để đưa xã hội vào vòng tối ám, là chiến tranh không chính nghĩa. Chiến tranh để mở đường khai lối, chiến tranh để đem lại yên bình tiến bộ là chiến tranh chính nghĩa. Thời Tam Quốc, hình thức đấu tranh giữa loạn với trị chủ yếu là chiến tranh. Lúc đó kẻ nào không nắm vững quy luật chiến tranh, không hiểu nghệ thuật chiến tranh tất bị đào thải.

Hãy dẫn ra một bằng chứng của chủ thể chiến tranh lúc đó, lịch sử gọi là loạn “ bộ khúc ”.

Cuối Đông Hán sang Tam Quốc, toàn quốc băng hoại, loạn ly. Trung ương chính phủ mất quyền, địa phương chính phủ tan rã. Thổ phỉ, lưu khấu, giặc cướp nổi như ong. Nông dân không có cách gì sinh sống liền phân tỏa gia nhập vào các đại môn đệ hay hào tộc, biến thành đội tự vệ võ trang bảo vệ cày cấy cho các hào tộc, gọi là quân bộ khúc. Tỉ dụ : Trương Tú là hào tộc, Điển Vi là tướng cầm đầu quân đội bộ khúc. Trung Quốc có hàng mấy ngàn quân bộ khúc, xâu xé cướp bóc lẫn nhau. Thử hỏi nếu muốn thống nhất xứ sở, bình định xã hội mà không có một tổ chức chiến tranh hoàn bị và mạnh nhất thì liệu có giải quyết nổi vấn đề chăng ?

Đời sau chê Tào Tháo là con người mưu mẹo, quỷ quyệt, nhưng lại tôn sùng ghi nhớ câu nói của vạn thế sư biểu Khổng Tử : “ Hiếu mưu nhi Thành ” . Mưu là hành động của kẻ trí. Nếu làm chính trị mà bị chê vì mưu mẹo, quỷ quyệt thì kẻ đần độn được ca tụng sao ?

Hoàng Thạch Công viết : “ Phi kế sách vô dĩ quyết hiềm định nghi, phi quyệt kỳ vô phá gian tức khấu, phi dụng mưu vô dĩ thành công ” ( không kế sách lấy gì mà giải bế tắc, không quỷ quyệt lấy gì trấn áp gian khấu, không có mưu lấy gì mà thành công ? )

Chê quỷ quyệt, chê mưu mẹo bất quá chỉ là thái độ của kẻ yếu ớt trước người giỏi hơn mình.

Bí quyết thành công của Tào Tháo, ta hãy đem so sánh sự thành công của Tào Tháo với sự thành công của Lưu Bang, tuy sự nghiệp lớn nhỏ không giống nhau nhưng đây là do thời thế chứ không phải do tài năng và hành động.

Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế, trong bữa đại yến rượu đã ngà ngà, quay ra hỏi quần thần : “ Các vị vương hầu, các vị tướng tá, hôm nay tôi muốn các ông phải nói cho thực : tại sao tôi thành công, tại sao Hạng Vũ thất bại ? ”

Có người đồng hương tên là Vương Lăng đứng dậy thưa :

“ Bệ hạ thành công nhờ ở lượng lớn biết chia đều. Khi thắng nơi nào thì bệ hạ biết giao phó cấp thưởng cho người đó. Lợi lộc bệ hạ công khai ban phát cho thiên hạ. Còn Hạng Vũ là người bội bạc bủn xỉn, thắng không biết ghi công, chiến không biết chia lợi ”.

Lưu Bang cười ngất, rồi nói : Đấy mới chỉ là một mặt thôi. Tôi xin thú thực, tài tôi nếu ngồi bàn thảo kế hoạch, bầy chiến lược thì không bằng Trương Lương. Nếu sai tôi làm thế nào cho binh lương sung túc, bảo vệ giao thông, phân phối công tác, tôi không bằng Tiêu Hà. Chỉ huy trăm vạn quân, chiến vô bất thắng, tôi không bằng Hàn Tín. Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín là ba vị đại hào kiệt tôi biết dùng và dùng nổi ; Hạng Vũ chỉ có một Phạm Tăng cũng không dùng được. Đấy là nguyên nhân thành công của tôi vậy.

Căn cứ vào câu chuyện trên đây thì cái đức chính trị của Lưu Bang khả dĩ thu gọn vào mấy chữ :

“ Hữu hiệu dụng nhân, công bình phân tặng ”.

( Giỏi dùng người, biết chia đều ).

Mọi mặt chuyên tài Lưu Bang đều thua sút Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà, nhưng Lưu Bang lại nắm quyền lãnh đạo là vì Lưu Bang biết dựa hành động của chính ông vào đại thế của thời đại rồi dùng đại thế mà kết chặt ba người kia.

Phép chia lời của Lưu Bang cũng vậy, những người theo ông nhất nhất đều được bù công lao xứng đáng. Nhưng lối chia lợi của ông biết đặt trên nền tảng thời thượng, nghĩa là làm cho bàn dân thiên hạ vui mừng chứ không phải chia lợi theo kiểu giặc cướp chia phần.

Tào Tháo không kém gì Hán Cao Tổ về hai điểm này.

Tóm lại, sống vào thời cực nhiễu nhương như Tam Quốc, nhà chính trị phải có sức mạnh của một con sư tử đồng thời lại phải khôn ngoan như một con cáo. Con sư tử làm người ta sợ hãi không chống đỡ nổi, con cáo làm cho người ta không biết lối nào mà lường. Sư tử hay cáo đều bị đám quần chúng ngơm ngớp và các lý thuyết gia chính trị nói dóc ( théoriciens bavards ) bài bác.

Sau hết, đối với Tào Tháo ta chỉ có thể nói câu này : “ Tất cả mọi điều khen chê đều không xứng đáng với ông ” như người Ý đã ghi trên mộ Machiavel.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét