Trò chuyện với người "xúi thành phố bán đường"
Tuần Việt Nam lật lại những câu chuyện, tìm lại những con người TP.HCM với những trăn trở, những quyết định và hành động đã tạo nên diện mạo TP.HCM hôm nay.
LTS: Mới đây, Bộ Chính trị vừa có một nghị quyết về phát triển thành phố HCM đến năm 2020, theo đó, Thành phố được trao cơ chế đặc thù để phát triển với những quyền tự chủ, có tính độc lập tương đối. Nhân dịp này, nhóm phóng viên Tuần Việt Nam - VietNamNet lật lại những câu chuyện, tìm lại những con người TP.HCM với những trăn trở, những quyết định và hành động đã tạo nên diện mạo TP.HCM hôm nay. Từng giữ cương vị là Viện trưởng Kinh tế Tp.HCM, và nay là Phó đoàn ĐBQH Thành phố, TS Trần Du Lịch chia sẻ góc nhìn riêng xung quanh chuyện phát triển của thành phố.
- Trước khi nói về những hướng phát triển sắp tới của thành phố, ông đánh giá thế nào về sự phát triển của thành phố sau hai thập kỷ vừa qua?
- TDL: Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay bao gồm cả tỉnh Gia Định cũ, thậm chí một phần thuộc tỉnh khác như Cần Giờ, Củ Chi. Thành ra, TP HCM có quy mô diện tích như một tỉnh trung bình của nước ta. Vì vậy, nếu đem so sánh với với những thành phố có sự phát triển vượt bậc trong khu vực, như Kuala Lumpur, Bangkok, Singapore, Thượng Hải, hay Thẩm Quyến, thì sự phát triển chung của TP. HCM chưa bằng.
Thế nhưng, nếu nhìn trong bối cảnh của Việt Nam, tôi cho rằng thành phố HCM có sự phát triển nổi bật, và đang theo hướng hiện đại.
- Thế nào là "nổi bật" và "theo hướng hiện đại", xin ông cho biết rõ hơn?
- TDL: Tôi muốn nhấn mạnh đến sự phát triển hạ tầng mọi mặt của thành phố.
Về hạ tầng kỹ thuật, ấn tượng thứ nhất, chưa nói đến phát triển không gian đô thị bên ngoài, riêng mảng chỉnh trang của thời kỳ cũ, đã có khối lượng rất lớn, thậm chí làm ngạc nhiên những tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB). Ví dụ, việc giải tỏa toàn bộ lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè để làm đường Hoàng Sa và Trường Sa, là một sự lột xác hoàn toàn, nếu các anh nhìn lại phim quay cảnh trước khi thực hiện công trình này, nhất là hình ảnh của tất cả những nhà lụp xụp trên kênh rạch tồn tại thập kỷ qua.
Một chuyên gia của Ngân hàng Thế giới gặp tôi năm 2000 nói rằng, theo kinh nghiệm của ông, nhiều nước không làm được bởi vì đụng đến tầng lớp đáy của xã hội. Nhưng TP. HCM đã có sự đột phá về quyết tâm, bởi chỉnh trang Nhiêu Lộc - Thị Nghè chính là để thay đổi cái nhìn về thành phố này.
Ấn tượng thứ hai liên quan đến chỉnh trang đô thị là Đại lộ Đông Tây. Tôi nhớ đã từng dự phiên họp của thường vụ thành uỷ, với yêu cầu phải giải tỏa năm nghìn căn dọc theo phía bên bờ Bắc, tức là phía bên bến Chương Dương. Lúc bấy giờ, chú Sáu Dân (cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã dự cuộc họp về vấn đề này.
Chú Sáu đã nói rằng không thể làm một bên bờ. Bởi ông ấy hình dung rằng khi làm xong, bên này đã khang trang, còn lại bên kia toàn nhà lụp xụp trên kênh rạch thì không thể nào ra đô thị được.
Còn về khu dân cư, thì ấn tượng nhất vẫn là sự chỉnh trang quận 4. Tôi nhớ năm 1992, nói về quận 4 ai cũng nói ở đấy tập trung những nhà lụp xụp, toàn dân dao búa (nơi lập nghiệp của Bố già Năm Cam - PV) nên không dám đụng tới. Nếu anh đến nơi này hồi năm 1992, thì nếu có cháy nhà, xe cứu hỏa cũng chịu không vào được. Nhưng sự nỗ lực của quận 4 đã làm thay đổi diện mạo của nó, và bây giờ nó gần như quận Nhất.
Ấn tượng tiếp theo là việc phát triển những khu đô thị mới. Công trình ấn tượng nhất, sự thể hiện rõ ràng nhất cho mô hình "đổi đất lấy hạ tầng" là đại lộ Nguyễn Văn Linh và khu đô thị Phú Mỹ Hưng.
Toàn bộ vùng đất đó trước đây là sình lầy, thậm chí có nhiều người cho rằng không nên phát triển vùng đầm lầy, phí tổn xây dựng cao. Thế nhưng, thành phố đã thành công trong việc hoàn thành công trình chỉnh trang đô thị như vậy.
Về hạ tầng kinh tế, ở thành phố HCM đã hình thành 14 khu công nghiệp và khu chế xuất, trong đó ấn tượng là khu Chế xuất Tân Thuận. Khu chế xuất này là sự nối tiếp cái nền móng có sẵn từ thời chế độ Sài Gòn vào đầu những năm 70. Dự án, do chiến tranh, chỉ mới bắt đầu, và sau đó suốt 10 năm sau giải phóng thì bị bỏ hoang. Chỉ vào cuối những năm 80 - đầu 90 mới bắt đầu tiến hành đền bù giải tỏa với quy mô 300 ha.
Năm 1992, tôi đi ứng cử ở đó, trình độ văn hóa dân cư ở đấy đến lớp 5 còn hiếm. Cách Sài Gòn (quận Nhất) có 4-5 cây số thôi, nhưng lạc hậu không thể tưởng tượng được. Sự hình thành khu chế xuất này là một dấu ấn lớn về sự khởi đầu phát triển của công nghiệp thành phố.
Còn 13 khu công nghiệp của thành phố được xây dựng trên những vùng đất địa hình không thể làm nông nghiệp được. Người ta hay nói thành phố HCM có một diện tích đất nông nghiệp bằng tỉnh Thái Bình, nhưng họ quên một điều là tỉnh Thái Bình thời Nguyễn Công Trứ là đất thuộc, còn đất của Gia Định cho tới thời giải phóng năm 75 vẫn là vùng bưng biền, không có tiềm năng về nông nghiệp. Như quận Thủ Đức, quận 2, bấy giờ gọi là quận bưng, tức là vùng bưng sáu xã.
TS Trần Du Lịch |
- Xin phép được ngắt lời ông. Thế dân cư ở đó sống bằng nghề gì, thưa ông?
- TDL: Nơi đó rất thưa thớt dân cư. Người ta sống theo kiểu làm mướn một vụ, rồi mò cua bắt ốc.
Hay ở Bình Chánh, một phần Bình Chánh được dùng để phát triển khu công nghiệp Tân Tạo, Vĩnh Hội, khu đó toàn bộ là đất phèn. Sau ngày giải phóng, thanh niên xung phong lập nông trường trồng bạch đàn, trồng mía, dứa.
Trước năm 75, chính quyền Sài Gòn, vùng đất xung quanh và sát Sài Gòn này không phát triển công nghiệp. Khu công nghiệp đầu tiên của miền Nam Việt Nam xây dựng là khu của Sodanezi bây giờ, một vùng đất cao ráo, đẹp đẽ, ở ngã ba đi Vũng Tàu.
Nói tiếp về câu chuyện hạ tầng, về hạ tầng dịch vụ, anh thấy với vốn đầu tư nước ngoài phát triển hệ thống trung tâm thương mại, các văn phòng, khách sạn 5 sao thì có thể nói phát triển tương đối. Chính nhờ như vậy, thành phố HCM đã thành hậu cần cho các tỉnh lân cận đặc biệt như : Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu.
Anh nhớ là tất cả những công ty nước ngoài vào đầu tư, dồn tiền vào Bình Dương, Đồng Nai, hay Vũng Tàu là sống nhờ Sài Gòn. Con cái họ học hành ở Sài Gòn, đi chữa bệnh ở bệnh viện Sài Gòn, rồi giải trí cũng ở Sài Gòn. Giống như ở ngoài Bắc : Vĩnh Phúc, hay Bắc Ninh lên được là nhờ Hà Nội làm hậu cần. Điều đó tạo nên sự lan tỏa.
- Để phát triển như vậy, thành phố đã dựa vào những nguồn lực nào?
- TDL: Thành phố HCM đi đầu trong vấn đề thu hút khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, thành phố thu hút được một nguồn vốn rất lớn. Đầu thập niên 90, trong lúc chưa xây dựng nổi kịp một khách sạn 5 sao, nước ngoài họ kéo một khách sạn 5 sao từ Úc về làm khách sạn nổi, phục vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn ở đây.
Tuy nhiên, nguồn vốn đó chỉ tập trung vào công nghiệp, hay thương mại - dịch vụ, chứ hạ tầng giao thông, giáo dục, hay y tế thì mình phải tự lo chứ. Chính vì vậy, bên cạnh việc thí điểm những mô hình đổi đất lấy hạ tầng, thành phố đã rất mạnh dạn trong vấn đề xã hội hóa đầu tư trong ba lĩnh vực nói trên.
Ví dụ như việc phát hành trái phiếu đô thị mở rộng đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, hay đường Trường Sơn, tức là đường nối vô sân bay Tân Sơn Nhất, và sau này đấu giá đường để khai thác như đường Điện Biên Phủ ...
Thành phố còn cho lập các công ty cổ phần xây dựng hạ tầng mang tính công chúng, rồi xã hội hóa, để đầu tư vào y tế, giáo dục.
Xu hướng này diễn ra rất mạnh. Ví dụ như chính sách thành phố bỏ ngân sách để bù lãi suất cho các bệnh viện, trường học vay tiền ngân hàng để họ mạnh dạn nâng cấp chúng lên.
- Xin ông giải thích cụ thể hơn.
- TDL: Thay vì một năm anh bỏ 1500 tỷ đồng để đầu tư vào các bệnh viện, các trường học, bây giờ anh chỉ bỏ 50 tỷ thôi để bù lãi suất. Các bệnh viện, trường học sẽ chủ động vay vốn ngân hàng, lãi suất thành phố trả, còn anh chỉ cần thu hồi giá vốn thôi.
- Việc xã hội hoá đầu tư công ở thành phố bắt đầu từ khi nào?
- TDL: Từ năm 1999, và tôi là người trực tiếp tham gia. Nói cho vui thôi là năm 2002, tôi đã được nhận bằng khen là một nhà khoa học có đóng góp vào vấn đề xã hội hóa ở thành phố.
- Vì đâu mà ông có ý tưởng đó?
- TDL: Rất đơn giản thôi. Tôi tính toán với tư cách người theo dõi thành phố về nguồn thu ngân sách, thì với yêu cầu đầu tư như vậy, nhà nước không thể làm được. Tôi đặt ra câu hỏi: Nhưng tại sao nhà nước phải làm tất cả, trong khi xã hội có thể làm tốt ?
Một là, nếu anh có chất lượng tốt cho các bệnh viện, trường học, người dân sẵn sàng trả tiền nhiều hơn cho anh. Vậy tại sao anh không tăng chất lượng lên ? Nhu cầu có, và tiếp tục tăng lên cùng với đà đi lên của nền kinh tế.
Hai là tại sao những cái mà tư nhân có thể tham gia thì nhà nước lại vẫn phải làm? Nhà nước chỉ nên dùng tiền ngân sách để làm những việc tư
nhân không chịu làm thôi.
- Nhưng chắc chắn ý tưởng đó cũng phải manh nha từ một gợi ý nào đó chứ ? Từ một chuyến tham quan nước ngoài chẳng hạn.
- TDL: Đúng là nhiều cái tôi có học tập từ Trung Quốc. Ví dụ như năm 95 tôi sang Trung Quốc tham quan, thì thấy bên họ đã xuất hiện khái niệm "bỏ tiền một, thu lại ba" - tức là bỏ tiền ra làm một con đường, sau ba năm tự nhiên có ba con đường.
- Hay vậy. Ông giải thích rõ đi.
- TDL: Họ làm một con đường, và trong vòng 12 tháng bán ngay quyền khai thác cho tư nhân để lấy tiền làm tiếp con đường thứ hai, và cứ tiếp tục như vậy.
Tôi lấy ví dụ như đường Điện Biên Phủ, đường Hùng Vương lúc đó tính kinh phí là 700 tỷ ngân sách, bán quyền khai thác cho công ty hạ tầng thành phố lấy một nghìn tỷ liền, và lấy tiền đó làm đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa.
- Khi đưa ra ý tưởng đó, ông có gặp khó khăn gì không?
- TDL: Khi đề xuất, tôi cũng gặp nhiều ý kiến phản đối. Tôi nhớ có người lên án tôi là xúi thành phố bán đường. Bởi khi ấy những con đường đó có lực lượng đang thu phí, và họ luôn muốn giữ quyền lợi của mình.
Tôi bảo tôi có bán đường đâu, tôi nhượng quyền khai thác 10 năm mà. Mức phí do thành phố quy định cho những phương án của họ, hoàn vốn trong thời gian bao lâu, hết thời hạn đó thì hoàn trả cho nhà nước.
May mà các lãnh đạo thành phố như ông Trương Tấn Sang, ông Nguyễn Minh Triết, hay ông Lê Thanh Hải ủng hộ rất mạnh, nên đề xuất đó mới được chấp thuận. Sau đó vài năm, Trung ương chuyển thành quy định chung của cả nước.
- Sau đó với cách ấy thì cuối cùng ở thành phố HCM kể từ khi làm dự án đường Điện Biên Phủ - Hùng Vương thì có bao nhiêu con đường được làm hoặc nâng cấp, theo hình thức như vậy?
- TDL: Bây giờ làm hầu hết rồi.
- Ông có thể cho biết có những điều gì mà thành phố lẽ ra có thể làm được mà chưa làm được?
- TDL: Thành tích thì nhiều mà tồn tại cũng không ít. Ví dụ như công tác quy hoạch, chủ yếu là tầm nhìn và không gian đô thị, là một vấn đề lớn của thành phố.
Chẳng hạn, có một số khu mới như Bầu Cát hay Bình Thạnh được làm với tầm nhìn thiển cận, từ hạ tầng giao thông đến hạ tầng xã hội không đồng bộ, mang lại một hình ảnh tệ hại về không gian sống. Lý do chính là thiếu kiểm soát xây dựng, dẫn đến vi phạm quy hoạch.
Hay trong quá trình phát triển kinh tế thành phố, những công trình thương mại - dịch vụ lại tập trung ở những nơi dễ gây ùn tắc giao thông. Chống ùn tắc giao thông bằng cái tầm nhìn quy hoạch kiểu như vậy thì cũng giống như anh chữa cháy mà bơm thêm dầu vào lửa. Nhu cầu của thị trường hoàn toàn để mặc thị trường điều tiết tự phát mà thiếu vai trò kiểm soát cần thiết của nhà nước.
Hoặc ví dụ như thành phố giải tỏa dọc bờ sông, nhưng một số khu đất mới, như khu vực Thảo Điền của quận 2, lại quy hoạch sát bờ sông, biến bờ sông thành của riêng.
- Vậy ông đánh giá thế nào về thái độ của thành phố đối với những di sản về qui hoạch và kiến trúc của chế độ cũ, hay xa hơn là thời Pháp thuộc. Chẳng hạn, ở khu vực Nhà thờ Đức Bà, một quần thể khá đẹp về mặt kiến trúc, lại nổi lên toà nhà Diamond, nhìn từ quán cà phê Bean, trông rất lạc điệu, cả về hình khối lẫn màu sắc. Có người còn nói nó làm liên tưởng tới toà nhà Hàm Cá mập ở khu vực Hồ Gươm, Hà Nội.
- TDL: Thực sự khu đó không phải ví dụ điển hình về phá vỡ cảnh quan kiến trúc. Phá nhiều nhất và phá đầu tiên là khách sạn Caravelle. Việc cho phép đẩy cao toà nhà Caravelle lên đã nuốt luôn toàn bộ Nhà hát Thành phố.
- Có phải chính nhu cầu xây dựng rất lớn và trong thời gian rất ngắn của thành phố, với tư cách là khu vực hậu cần cho các tỉnh xung quanh phát triển, đã khiến thành phố HCM phải hứng chịu hậu quả đó không? Tức là công tác qui hoạch không theo kịp nhu cầu phát triển?
- TDL: Nói vậy cũng hơi quá. Vẫn có quy hoạch, nhưng kém về việc tuân thủ theo quy hoạch. Một điểm nữa do khách quan, áp lực nhập cư quá lớn. Thời tôi còn làm Viện trưởng Viện Kinh tế, thành phố cứ mỗi năm tăng thêm 200 nghìn dân.
- Thế chúng ta phải quay lại câu chuyện lúc đầu. Ban nãy ông nói thành công ở thành phố là làm được mười mấy khu công nghiệp, nhưng lại kéo theo nhân công từ các chỗ khác về, đúng không?
- TDL: Không, tôi chỉ nói liên quan đến chỗ đó, nhưng bên cạnh sự thành công của các khu công nghiệp thì tư duy quy hoạch đã bị thiếu tầm nhìn. Phát triển khu công nghiệp sẽ như một ốc đảo nếu như không quy hoạch khu dân cư bên cạnh cho người lao động khu công nghiệp ở, đồng thời không gắn sự phát triển các loại hình dịch vụ đi theo. Từ chỗ đó, trong nhiều năm liền cứ cạnh khu công nghiệp hình thành các nhà trọ tự phát, nhếch nhác khủng khiếp, dẫn đến những áp lực về môi trường, và nói chung, tất cả mọi thứ.
- Đến lúc nào thì lãnh đạo thành phố nhận ra sự bất cập đó?
- TDL: Thực sự, thành phố nhận ra từ lâu, cụ thể Đại hội 7 của thành phố, cuối năm 2000, đặt ra vấn đề tuân thủ quy hoạch và phát triển theo hướng đa trung tâm và tạo sự đồng bộ. Chẳng hạn, đề án xây dựng khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị cảng Hiệp Phước, khu đô thị Tây Bắc...
Tuy nhiên, trong 10 năm vừa qua, do nhiều yếu tố khách quan, những công trình như vậy chưa mang lại kết quả rõ ràng.
- Những yếu tố khách quan là gì vậy?
- TDL: Ví dụ, làm khu Thủ Thiêm lại vướng công tác đền bù giải tỏa quá chậm, lúc nhà đầu tư muốn vào thì không có đất sạch. Khi bắt đầu có đất, bắt đầu xây lại hạ tầng, thì lại nổ ra khủng hoảng.
Hay khi xây dựng khu đô thị cảng Hiệp Phước, lại gắn liền với việc di dời cảng. Quá trình di dời cảng và xây dựng đô thị cũng chậm, nên chưa hình thành những khu dân cư lớn như vậy.
- Chẳng hạn, như nói về khu Thủ Thiêm, dường như có ý kiến quy hoạch lúc đầu đang bị xáo trộn lại?
- TDL: Không, thực sự việc quy hoạch tổng thể toàn bộ khu này do một công ty tư vấn của Mỹ làm, và khi thực thi không có gì thay đổi cả. Hiện nay, vấn đề là thực hiện chậm thôi, chứ không phải thay đổi qui hoạch.
Vừa rồi, tôi có nói chuyện với nhà khảo cổ học và được nghe thông tin rằng đầu tiên dự kiến cho 20 héc ta đất để làm khu bảo tàng thành phố, sau rút lại còn 10 héc ta, và gần đây rút lại chỉ còn 1,8 héc ta. Người ta cảm giác có những tác động của nhóm lợi ích, chẳng hạn như các nhà
kinh doanh bất động sản.
Vấn đề ở đây là đừng nhìn Thủ Thiêm chỉ với 600-700 héc ta mà có thể phát triển một khu đô thị cả về khoa học, văn hóa. Nên phát triển các công trình khoa học, văn hoá ở quận 9, gắn liền với khu công nghệ cao và làng văn hóa các dân tộc quốc gia.
Thủ Thiêm, theo tôi, chỉ nên là cái lõi về tài chính - ngân hàng. Thực sự tỷ lệ đất thương mại đó chỉ chiếm 30% thôi, còn công trình công cộng là chính.
Ví dụ, ở đó có một quảng trường với sức chứa cho cả triệu người tham gia mít-tinh. Hay có một cái hồ lớn. Còn phía Nam làm toàn bộ một khu làm bề mặt cho thủy triều lên xuống.
Như vậy, các công trình văn hoá nên xây dựng ở quận 9 và hình thành khu đô thị tri thức ở đây.
- Thế tại sao hồi ấy nếu là khu tài chính - ngân hàng chẳng hạn, thì lại có khu phần mềm Nankang của Đài Loan?
- TDL: Thực sự tài chính - ngân hàng là khu lõi. Trung tâm phần mềm như một tòa nhà, một điểm nhấn về kiến trúc thôi mà. Bởi để làm công nghệ cao không tốn diện tích như khu công nghiệp. Chủ yếu ăn nhau ở ý tưởng thôi.
- Nghe nói ý tưởng xây dựng khu đô thị Thủ Thiêm còn có trước cả Phú Mỹ Hưng, mà sao triển khai lại chậm vậy?
- TDL: Không phải đâu. Thủ Thiêm mãi tới năm 1997 mới đưa ra phác thảo thôi, đến 2002 mới lập phương án đền bù giải tỏa. Nhưng từ đó trở đi, vấn đề giải tỏa mới khiến dự án bị kéo dài ra, mỗi lúc lại thay đổi chính sách, do sự khiếu kiện về đền bù giải toả kéo dài.
Còn Phú Mỹ Hưng làm nhanh hơn, vì tư nhân làm thành ra mọi thủ tục này nọ dễ dàng hơn. Còn Thủ Thiêm là lập một cơ quan quản lý nhà nước để làm nên thủ tục hành chính rất nhiêu khê: thuê tư vấn rồi phải duyệt kinh phí, mọi thứ bị chậm rồi mất cơ hội.
- Thế vì sao có một mô hình công ty tư nhân làm tốt như ở Phú Mỹ Hưng thì tại sao Thủ Thiêm không áp dụng?
- TDL: Không thể làm được vì Thủ Thiêm có chứa đến hàng chục ngàn hộ dân, khác với Phú Mỹ Hưng là đất sình lầy. Nếu giao cho tư nhân, người dân không bao giờ chấp nhận. Vì vậy nhà nước phải đứng làm đô thị đền bù giải tỏa cho đất .......... thế mà còn làm không được, tư nhân làm sao nổi.
- Bây giờ quay lại câu chuyện từ năm 2000, khi nhận thấy áp lực về dân nhập cư lên hạ tầng thành phố rồi, thành phố có tiến hành điều chỉnh lại không? Chẳng hạn, khuyến khích di chuyển các nhà máy thuộc những ngành công nghiệp thâm dụng lao động, chuyển sang thu hút những ngành công nghệ cao.
- TDL: Bắt đầu tiến hành từ năm 2001, thành phố không nhận dự án FDI sử dụng nhiều lao động như may mặc, da giầy..., để giảm lao động phổ thông nhập cư. Khu vực tư nhân tập trung vào các khu công nghiệp, và thành phố đã di dời hoàn toàn những nhà máy xen lẫn với khu dân cư, chừng khoảng 1200 cơ sở, phải vào khu công nghiệp hết. Giải quyết vấn đề đó là một vấn đề lớn của thành phố trong nhiều năm. Thành phố đã phải bỏ tiền ra hỗ trợ lãi suất các chủ doanh nghiệp đó di dời để đầu tư mới.
- Tôi muốn hỏi thế này: ODA đầu tiên sinh ra từ chỗ các nước phát triển. Vì sợ dòng nhập cư từ các nước chậm phát triển gây ra cấc bất ổn kinh tế - xã hội - môi trường nên họ có những khoản viện trợ phát triển để tạo công ăn việc làm ngay tại chỗ, và góp phần ngăn chặn dòng di dân.
Nếu ta so sánh TP.HCM và những vùng kém phát triển khác trong nước, liệu thành phố có nên có hình thức hỗ trợ nào đó tương tự như ODA không? Ông vừa nói đến hỗ trợ di dời vào khu công nghiệp, nhưng mình cũng có thể hỗ trợ vốn để họ thành lập nhà máy ngay tại những địa phương khác. Chẳng hạn anh Quảng Nam thì về Quảng Nam lập nhà máy, rồi sử dụng nhân công ngay tại đó, tiện nhiều bề.
- TDL: Không, TP.HCM chưa thể làm được vai trò đó. Thành phố chỉ làm được thế này: ký hợp tác với hơn ba chục địa phương khác trong vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp thành phố đầu tư vào các tỉnh. Thành phố ý thức được vấn đề này, nhưng thực hiện còn hạn chế. Bởi đơn giản, doanh nghiệp thấy chỗ nào có lợi thì họ làm, chứ mình đâu chọn được chỗ cho họ, mà mảnh đất này vẫn thực sự có một sức sống lớn.
Chẳng hạn, do giá thuê đất ở đây đắt, nên Công ty May Nhà bè mở nhà máy mới ở Bình Định, chứ không mở rộng ở thành phố. Có điều, họ vẫn làm thương mại ở đây. Tương tự như vậy đối với các doanh nghiệp da giầy, đồ gỗ.
Hướng của thành phố là ở đây làm trung tâm thời trang, trung tâm giao dịch mua bán, thương mại, xuất khẩu, còn nhà máy làm nơi khác.
- Thế còn chính sách ưu đãi đất đai cho các doanh nghiệp thuộc khu công nghiệp xây nhà ở cho công nhân? Nghe nói doanh nghiệp họ cũng đề xuất nhiều mà chưa được chấp thuận?
- TDL: Tôi xin quay lại câu chuyện cũ. Khi quy hoạch các khu công nghiệp, không còn những khu như vậy, vì thực ra không còn đất. Muốn lập khu công nghiệp phải giải tỏa các khu dân cư bên cạnh, vấn đề đền bù rất lớn, mà cũng chưa giải quyết được.
Giải pháp có một số nơi đã làm, như khu Vĩnh Hội, Vĩnh Lộc, hay khu Tân Tạo, người ta đã chỉnh lại qui hoạch, xén bớt một phần đất công nghiệp chưa cho thuê được để xây nhà ở cho công nhân.
Còn những khu nơi đã lấp đầy thì chịu. Đó cũng là hệ quả của tầm nhìn quy hoạch.
- Về dài hạn, những khu nhà trọ lụp xụp xuất hiện tự phát quanh các khu công nghiệp, như ông đã đề cập, theo ông, thành phố nên xử lý thế nào, dưới góc nhìn quy hoạch?
- TDL: Chỉnh trang đô thị phải đi từng bước như vậy. Một số khu công nghiệp trong thành phố sẽ trở thành khu dịch vụ thương mại, khi hết vòng đời, theo giấy phép, của chúng. Thâm Quyến cũng làm như vậy.
Khi tôi đến Thâm Quyến đầu thập niên 1990, chỗ đó là khu công nghiệp. Nhưng sau 20 năm, khi tôi trở lại, ở đó khu công nghiệp không còn nữa, mà chuyển làm thứ khác rồi. Khi giá đất lên, thị trường sẽ tự điều chỉnh.
Huỳnh Phan - Thái Thiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét