Trang

Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018


1 bài viết chưa hẳn là so sánh hoàn chỉnh nhưng cũng rất thú vị khi có những chi tiết về cuộc đời hoặc hậu trường của 2 nhà lãnh đạo của 2 nước lớn ở bên Châu Âu đối đầu với nhau. Cả 2 người còn có 1 điểm chung nữa là bị coi là độc tài , nhưng như Hitler đã được nhân dân bầu lên thì sao gọi là độc tài được  ??  Thế thì lỗi là ở nhân dân vì không đủ trình độ hiểu biết và sáng suốt chứ có phải là tại Hitler đâu  !!  Còn Stalin nếu là 1 tên độc tài đáng ghét khó ưa thì làm sao có thể sống tà tà cho đến khi chết được, cứ nhìn các nhà cai trị bị coi là độc tài từ trước tới giờ có ai mà bị ghét nhiều đến nỗi có thể tại vị cho đến khi chết được không ?? Nói cách khác, nếu như không có được sự ủng hộ của toàn bộ hoặc là 1 phần đông đảo nhân dân thì bản thân của các nhà độc tài không thể nào tại vị mãi được chứ đừng nói là phát động 1 cuộc chiến tranh mà tất cả quần chúng nhân dân đều ủng hộ . 


thà cứ mang danh là độc tài nhưng được nhân dân ủng hộ, chứ có người được cả thế giới khen ngợi và được trao giải, sau đó vì bảo vệ quyền lợi của dân tộc và nhân dân thì bị người ta đòi lại giải thưởng và đòi kiện ra tòa án quốc tế nữa thì thật là cay đắng đến dường nào  !!


quả đúng là : được cả thế giới khen ngợi mà không được quần chúng nhân dân trong nước ủng hộ thì nào có ích lợi gì  ???


Khi Stalin đối mặt với Hitler - Ai hơn ai ?

( Stephen Kotkin )

Biên Dịch : Nguyễn Hữu Toàn ( lược trích )

Cho tới trước năm 40 tuổi, Joseph Stalin đạt rất ít thành tựu. Ông sinh năm 1878 trong một gia đình nghèo ở Gori, Georgia, nơi sau này trở thành một phần của đế chế Nga. Cha ông là một người thợ sửa giày, mẹ là thợ giặt và may vá. Thời thơ ấu của Stalin tính cả những lúc đau ốm và bất hạnh có thể xem là khá yên ấm. Ông đã không tham gia kì thi cuối cấp tại trường dòng Tiflis và không thể tốt nghiệp. Thay vì trở thành mục sư, ông tham gia vào lực lượng cách mạng ngầm để chống lại sự áp bức của chế độ Nga Hoàng, sau đó ông trải qua 20 năm tiếp theo tổ chức cách mạng, ẩn nấp, ngồi tù và bị đày sang Siberia.

Cuộc đời của Stalin mãi mãi thay đổi khi cuộc tổng nổi dậy bùng nổ vào năm 1914 , cuộc nổi dậy đã góp phần lật đổ chế độ Nga Hoàng vào tháng 2 năm 1917 , theo sau đó là một cuộc cách mạng chớp nhoáng từ những người cánh tả cấp tiến dưới sự lãnh đạo của Vladimir Lenin. Một cách bất ngờ, người đàn ông 39 tuổi Stalin đã trở thành một thành viên trong ban lãnh đạo của chế độ Bolshevik mới.




Ông đóng vai trò trung tâm trong cuộc nội chiến Nga cũng như sự thành lập của Liên Bang Xô Viết . Năm 1922 , Lenin tự bổ nhiệm mình là người đứng đầu Đảng cộng sản. Một tháng sau, Lenin gặp cơn tai biến và không còn khả năng lãnh đạo nữa, Stalin đã nắm lấy cơ hội này để thiết lập một chế độ độc tài của riêng mình bên trong một Đảng lãnh đạo Bolshevik ngày càng được mở rộng. Bắt đầu từ cuối thập niên 1920, trong nỗ lực xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa, Stalin đã cưỡng bách 120 triệu nông dân vào mô hình nông trại tập thể, bắt giam hết vào các nhà tù chính trị ( gulag ) cũng như tàn sát một số lượng lớn những người trung thành trong quân đội, cảnh sát mật, các tòa đại sứ, mạng lưới gián điệp, các nhà khoa học, nghệ sĩ, và các tổ chức đảng phái khác.

Bóng dáng khổng lồ của một Stalin - bạo chúa được ẩn sâu dưới hình hài của Stalin - con người hết sức hiền hòa. Ông sưu tầm đồng hồ, chơi ném ky gỗ và đánh bi-a. Ông thích làm vườn, tắm hơi, thích các bút màu – xanh dương, đỏ và xanh lá. Ông thường uống nước khoáng và rượu lấy từ quê hương Geogia của mình. Ông hút thuốc lá bằng tẩu và thường bỏ vào trong tẩu 2 điếu thuốc rồi mới đánh diêm. Đặc biệt, ông luôn sắp xếp bàn làm việc của mình theo một trật tự ngăn nắp.

Stalin rất mê đọc sách, ông hay đánh dấu và dùng những kẹp sách để ghi nhớ những đoạn văn hay. Thư viện cá nhân của Stalin có hơn 20.000 đầu sách. Ông không những ghi chú những tác phẩm của Karl Marx, Lenin mà còn cả những bản dịch tiếng Nga của Plato và Clausewitz cũng như những tác phẩm của Alexander Svechin, một cựu sĩ quan của chế độ Nga Hoàng và là người mà Stalin không bao giờ tin cậy, nhưng ông sĩ quan đã chứng minh được rằng biến số duy nhất trong chiến tranh chính là sự thiếu vắng những biến số đó. Trong số những nhà văn Nga, người mà Stalin hâm mộ nhất có lẽ là Anton Chekhov, người đã khắc họa những nhân vật phản diện cũng như anh hùng với một sự phức tạp đã cuốn hút Stalin. Dù vẫn thường xuyên đánh giá những tư liệu tham khảo rải rác trong những bài viết và trong những bài diễn văn của mình nhưng ông cũng giành nhiều thời gian để đọc tiểu thuyết văn học thời kì Xô Viết. Những ngôn từ biểu cảm của ông trong lúc đọc thường rất khiếm nhã như : “ Đồ rác rưởi ” , “ ngu ngốc ” , “ đồ bỉ ổi ” , “ bực mình ” , “ ha-ha ! ”

Cách cư xử của Stalin rất thô lỗ và ông không có khiếu hài hước, nhưng ông đã trau chuốt ngoại hình của mình để ra dáng là một lãnh đạo tài ba. Ông cũng lược bỏ những trò đùa và những từ ngữ không cần thiết ra khỏi các bài diễn văn của mình trong những buổi họp. Ông có vài tình nhân nhưng không có vợ. Cuộc sống gia đình của Stalin không hạnh phúc cũng không buồn tẻ. Cuộc sống cá nhân của ông hòa quyện với chính trị. 

Stalin nói rất nhỏ nhẹ, thỉnh thoảng khó nghe bởi vì thanh quản của ông bị hư. Ông thích được gọi là Koba, lấy theo tên của một vị anh hùng dân tộc ở Georgia ( và là một mạnh thường quân ngoài đời thực đã tài trợ cho nền giáo dục của chế độ Stalin ) . Nhưng một người bạn thân thời thơ ấu đã gọi ông là Geza, một phương ngữ ở Gori để chỉ dáng đi lạ lùng của Stalin, một di chứng để lại sau khi ông bị một tai nạn lúc còn nhỏ. Ông phải đưa hết cái hông sang một bên để bước đi. Cuộc chiến đấu với căn bệnh đậu mùa lúc nhỏ đã để lại những vết sẹo trên mũi, dưới môi, cằm và hai bên má của ông.


CUNG ĐIỆN TRONG MƠ

Stalin nhìn thấy bản thân và đất nước của ông đang bị đe dọa ở mọi hướng. Sau khi nắm được chính quyền năm 1917, Lenin và những đồng chí của ông bị ám ảnh về “ sự bao vây của tư bản ” mà cuộc đảo chính của họ đã mang lại : giờ đây, căn bệnh ảo tưởng đã ăn sâu và càng ăn sâu bởi sự ảo tưởng cá nhân của Stalin. Điều này chính là những nghịch lý mâu thuẫn của chính quyền và Stalin đã lập luận rằng đất nước càng tiến gần hơn với chủ nghĩa xã hội thì sự đấu tranh giai cấp sẽ trở nên dữ dội hơn. Stalin càng nắm nhiều quyền lực, ông ta càng muốn có thêm nhiều quyền lực hơn nữa. Những thành tựu đạt được bị phủ bóng bởi mưu đồ lật đổ đã trở thành động lực của cuộc cách mạng và cuộc đời của ông. Bắt đầu từ năm 1929, khi uy tín của nhà nước Xô Viết và nền chuyên chính độc tài của riêng cá nhân Stalin ngày càng gia tăng thì những mối hiểm họa cũng đồng thời tăng theo. Động lực xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa của ông đã tỏ ra thành công và làm choáng váng tất cả, đồng thời củng cố một cách sâu sắc sự hoài nghi thái quá và thiên hướng thù địch của ông.

Một sự sùng bái được dựng lên xung quanh ông, tôn vinh ông như là “ vozhd ”, một từ Slavic cổ có nghĩa như là “ lãnh đạo tối cao ” – tương đương với tiếng Nga là “ lãnh tụ ” hay “ führer ” . Stalin phản đối sự sùng bái, tự gọi mình “ chẳng là gì khi so với Lenin ” . Theo lời của một trợ lý thân cận của ông là Anastas Mikoyan, Stalin đã từng khiển trách một viên chức Liên Xô rằng, “ tại sao ông chỉ ca ngợi mình tôi như thể tôi là người quyết định mọi chuyện vậy ? ”. Cho dù những phản đối như vậy của Stalin phản ánh một sự khiêm tốn giả tạo hay là một cử chỉ xấu hổ thật sự thì đó vẫn còn là điều khó nói, nhưng ông ta dần cho phép những lời ca tụng không ngớt mà ông nhận được từ công chúng. “ Thoạt đầu, ” Vyacheslav Molotov nhớ lại, đây là một người trợ lý quan trọng của Stalin qua nhiều thập niên, “ Ông ta phản đối sự sùng bái cá nhân, nhưng sau đó ông ta dần dần thấy thích thú với điều này ” .

Stalin là một nhà cai trị không khoan nhượng với những lực lượng đối lập. Ông ta có thể đùng đùng nổi giận, cũng có thể dịu dàng với một nụ cười nhẹ nhàng và sảng khoái. Ông có thể quan tâm và cuốn hút, ông theo đuổi những khuynh hướng trả thù một cách ép buộc. Ông tự hào về niềm đam mê đọc sách của mình và khả năng trích dẫn những châm ngôn của Mác và Lenin ; ông căm ghét những trí thức giả tạo, người mà họ luôn nghĩ mình giỏi hơn tất cả. Ông sở hữu một bộ nhớ phi thường và tầm nhìn rộng lớn ; phạm vi hiểu biết của ông bị hạn chế sâu sắc bởi những lý thuyết nguyên sơ về đấu tranh giai cấp và chủ nghĩa đế quốc. Ở ông đã phát triển một cảm giác về những khác vọng của quần chúng nhân dân và tầng lớp tinh hoa đang phôi thai ; Stalin hầu như không bao giờ đến thăm những công xưởng hay nông trại hoặc thậm chí những cơ quan nhà nước, thay vào đó ông đọc những bản báo cáo mật và các bài báo về đất nước mình đang cai trị. Ông hoài nghi về những động cơ hiển nhiên cơ bản của tất cả mọi người, sống và hít thở bằng những lý tưởng của riêng mình.

Stalin làm những điều mà những nhà lãnh đạo tài giỏi vẫn hay làm : khởi xướng và hướng đến mục tiêu kiên định, trường hợp của ông là một nhà nước hùng mạnh được hậu thuẫn bởi một xã hội đoàn kết đã đẩy lùi chủ nghĩa tư bản và xây dựng nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa. “ Đáng sợ ” và “ xuyên tạc ” không phải là từ ngữ để mô tả về ông. Đồng thời với đó, Stalin kích động hàng triệu người vào những công việc này. Bộ máy chính quyền khổng lồ của Stalin được bắt nguồn từ một Đảng duy nhất, những cơ quan quản lý tàn bạo và hệ tư tưởng Mác - Lenin . Nhưng quyền lực của ông đã bị cường điệu lên nhiều lần bởi những thường dân, những người đã gửi gắm vào ông những khao khát của họ về công bằng xã hội, hòa bình, thịnh vượng, và một quốc gia vĩ đại. Những nhà độc tài tích lũy được quyền lực to lớn thường có xu hướng lui về với những mưu cầu cá nhân, diễn giải dong dài về những nỗi ám ảnh của họ và làm tê liệt nhà nước. Nhưng nỗi ám ảnh của Stalin là về một chính quyền xã hội chủ nghĩa vĩ đại mà ông đã lao động cả ngày lẫn đêm để xây dựng nó. Stalin là một nhân vật huyền thoại và ông đã chứng tỏ mình xứng đáng với sự so sánh đó.


“ MỘT KẺ ĐÁNG SỢ ”

Hitler trẻ hơn Stalin 11 tuổi, sinh năm 1889 ở một vùng biên giới giữa hai nước Áo - Hung. Cha ông qua đời khi ông mới 13 tuổi và mẹ ông mất năm lên 18. Bác sĩ người Do Thái, người đã chăm sóc mẹ ông đã kể lại rằng trong 40 năm hành nghề y của mình, ông ta chưa bao giờ thấy ai đau khổ về cái chết của mẹ mình như là Hitler . Ở tuổi 20 , Hitler trông thấy mình thật thảm hại ở Vienna, di sản và tiền tiết kiệm của ông đã gần cạn kiệt. Ông đã 2 lần bị từ chối vào Học viện mỹ thuật Vienna ( lý do là bài vẽ hình theo mẫu không đáp ứng yêu cầu ) và ông đã cư ngụ trong những nhà tạm cho người vô gia cư đằng sau một ga xe lửa. Một người lang thang ở giường bên đã hồi tưởng lại rằng “ quần áo của Hitler toàn là chấy rận bởi vì ông đã lang thang trong nhiều ngày ở ngoài đường và trong tình trạng bẩn thỉu kinh khủng ” . Chẳng bao lâu sau, với một khoản vay nhỏ từ một người dì, Hitler đã tìm được một khu nhà chung cư dành cho đàn ông.

Ông kiếm được những công việc lặt vặt như là vẽ hình trên những bưu thiếp và phát thảo những biển quảng cáo. Ông cũng thường xuyên vào những thư viện công cộng của thành phố nơi ông đã đọc nhiều tiểu luận về chính trị, báo chí, về triết gia Arthur Schopenhauer và tiểu thuyết về Karl May , bộ truyện về những ngày đối đầu của người cao bồi và người Da Đỏ ở vùng miền Tây nước Mỹ hay cảnh đẹp ở vùng Cận Đông.

Hitler trốn lệnh nhập ngũ ở Áo. Khi bị chính quyền bắt, họ cho rằng ông không đủ điều kiện sức khỏe và không phù hợp để tòng quân. Ông vượt biên sang Munich và vào tháng 8 năm 1914 , ông tham gia quân đội Đức với cấp bậc là binh nhì. Khi thế chiến thứ nhất kết thúc, ông vẫn là binh nhì nhưng những diễn biến thời hậu thế chiến đã thay đổi cuộc đời ông. Ông nằm trong số những người chuyển từ lực lượng chính trị cánh tả sang cánh hữu sau thất bại thảm hại của Đế quốc Đức .

Những thước phim từ năm 1918 chiếu cảnh Hilter đang đi bộ trong đám tang của một người lãnh đạo ở xứ Bavaria, một người Do Thái của Đảng Dân Chủ Xã Hội ; ông mang hai băng tay, một cái màu đen ( cho việc để tang ) và một cái màu đỏ. Vào tháng 4 năm 1919, sau khi Đảng Dân Chủ Xã Hội và những thành phần vô chính phủ thành lập nhà nước Cộng Hòa Xô Viết Bavaria thì những người cộng sản đã nhanh chóng chiếm được chính quyền ; Hitler đã suy nghĩ về việc tham gia Đảng Dân Chủ Xã Hội, phục vụ với vai trò là một đại diện cho nhóm lực lượng của Xô Viết ( hội đồng Xô Viết ) . Ông không phải là người trong nghề để làm đại diện nhưng có vẻ ông phải tham gia vào lực lượng tuyên truyền cho lực lượng bên cánh tả. 10 ngày trước sinh nhật lần thứ 30 của Hitler, nhà nước Cộng Hòa Xô Viết Bavaria nhanh chóng bị nghiền nát bởi một lực lượng gọi là Freikorps, thành phần chủ yếu là những cựu quân nhân thời chiến tranh. 

Hitler vẫn tại ngũ bởi vì một vị lãnh đạo cao cấp của bộ phận “ thông tin ” trong quân đội Đức đã có ý định gửi ông vào một khóa học hướng dẫn chống những người cánh tả và sau đó sử dụng ông để thâm nhập vào những nhóm lực lượng cánh tả này. Viên sĩ quan đó kể lại rằng Hitler “ giống như một chú chó mệt mỏi và lạc lối, đang đi tìm một vị lãnh tụ ” và “ sẵn sàng phó mặc số phận của mình để đến với người nào thể hiện sự chân thành đối với ông ta ” . Nhiệm vụ làm người truyền tin đã đưa Hitler tham gia vào một nhóm nhỏ lực lượng cánh hữu là Đảng Công Nhân Đức được thành lập để lôi kéo công nhân tránh xa chủ nghĩa cộng sản và cũng chính Đảng này mà Hitler, với sự giúp sức của lực lượng bài người tị nạn Do Thái cực đoan từ Đế quốc Nga cũ, đã chuyển đổi thành Đảng Công Nhân Đức Quốc Gia Xã Hội Chủ Nghĩa hay còn gọi là Đảng Quốc Xã .

Mặc dù đã bắt đầu kiếm được một chút danh tiếng với vai trò là người kích động những người cánh tả cực đoan, Hitler vẫn còn là một nhân vật không quan trọng lắm. Khi Stalin trở thành Tổng bí thư mới của Đảng cộng sản lãnh đạo một nhà nước lớn nhất thế giới, Hitler bị tù giam sau nỗ lực chiếm chính quyền bất thành vào năm 1923 ở Munich, 1 biến cố mà sau này bị chế nhạo là “ cuộc đảo chính ở quán bia ”. Ông bị kết án tù 5 năm. Dù vậy, ông vẫn cố gắng biến bản án của mình thành thắng lợi cuối cùng. Một trong những thẩm phán đã nhận xét rằng “ thật là một kẻ đáng sợ , tên Hitler này ! ” Thực vậy , mặc dù Hitler là công dân của Áo, vị thẩm phán chủ tọa vẫn cho phép ông ta ở lại Đức với lý do là luật quy định trục xuất “ không thể áp dụng vào một con người có suy nghĩ và tình cảm giống người Đức như tên Hitler , kẻ đã tình nguyện phục vụ hơn 4 năm rưỡi trong quân đội Đức ở thời chiến, kẻ đã có được những danh tiếng bởi sự dũng cảm phi thường khi đối mặt với kẻ thù và đã bị thương ” .

Suốt 2 tuần đầu ở trong tù, Hitler đã tuyệt thực vì tin rằng ông xứng đáng được chết, nhưng những lá thư gửi đến ca tụng ông như là vị anh hùng dân tộc. Con dâu của Richard Wagner là Winifred đã gửi bút và giấy để động viên Hitler viết một quyển sách. Hitler có một người phụ tá trong tù tên là Rudolf Hess, người đã chép chính tả cho ông và tạo nên một cuốn tự truyện để tưởng nhớ đến 16 chiến sĩ của Đảng Quốc Xã đã hi sinh trong cuộc đảo chính bất thành. Trong cuốn “ Mein Kampf ” ( Con đường tranh đấu của tôi ) , Hitler mô tả bản thân như là người được số phận lựa chọn và thề sẽ khôi phục lại nước Đức để trở thành một cường quốc cũng như quét sạch người Do Thái ra khỏi đất nước, ông tự phong mình là “ kẻ thù của chủ nghĩa Mác-xít ” . Vào tháng 12 năm 1924, sau khi chỉ ngồi tù có 13 tháng, Hitler được thả. Nhưng quyển sách của ông có rất ít người mua, quyển thứ hai cũng thất bại trong việc tìm kiếm nhà xuất bản và Đảng Quốc Xã của ông đang vật lộn với cuộc bầu cử. Bá tước D’Abernon, đại sứ của Anh ở Berlin thời điểm đó đã tóm tắt cuộc sống chính trị của Hitler sau khi được cho ra tù sớm như là “ đang biến dần vào hư vô ” .

Nhưng lịch sử chứa đựng nhiều sự bất ngờ, rằng nhân vật người Áo này từ thành viên của một phong trào chính trị nhỏ lẻ đã trở thành một nhà độc tài của Đức và là đối thủ chính của Stalin, điều mà không ai có thể tưởng tượng được vào năm 1924 . Hitler là một nhà hùng biện bậc thầy : thường không kiên định nhưng lại sở hữu những ý tưởng cấp tiến và nhận thức được con đường cuối cùng ông sẽ đi cũng như nắm bắt được những cơ hội đưa đến với ông. Stalin cũng là một nhà chiến lược theo chiều hướng như vậy : một người với những ý tưởng cấp tiến có thể nhận thức và nắm bắt những cơ hội mà ông không bao giờ tạo ra nhưng lại biết cách biến chúng thành lợi thế của mình. Những cơ hội quý giá nhất được Stalin và Hitler nắm bắt thường được xem là “ những mối đe dọa ” khẩn cấp mà họ đã thổi phồng lên hay tự phát minh ra. Lịch sử được dẫn dắt bởi những tác động của địa-chính trị, những thể chế và những ý tưởng, nhưng phải có những tác nhân của lịch sử để những yếu tố này có thể vận hành được.

Kinh nghiệm của bản thân Stalin về nước Đức chỉ là một vài tháng ở Berlin vào năm 1907 nơi ông dừng chân khi đang trên đường trở về Nga từ một cuộc họp của Đảng Bolshevik ở London. Ông từng học tiếng Đức nhưng không bao giờ thành thạo nó. Nhưng giống như những nhà cầm quyền trước của chế độ Nga Hoàng, Stalin là một người sùng bái nước Đức, ngưỡng mộ hệ thống công nghiệp và khoa học ở đất nước này chỉ với bằng một từ, đó là sự hiện đại. Nhưng trong một thời gian dài, Stalin không hề biết đến sự tồn tại của Hitler.

Sau đó vào năm 1933, Hilter được chọn làm người lãnh đạo bộ máy nhà nước vĩ đại mà Stalin hết sức ngưỡng mộ. Cuộc đời của hai nhà độc tài tồn tại song song với nhau như nhà sử học Alan Bullock đã từng viết như vậy. Đó là điểm giao nhau có ý nghĩa quan trọng : 2 người đàn ông đến từ 2 phạm trù xã hội khác nhau đều hồi sinh và tái tạo lại đất nước của mình một cách tàn bạo nhưng cả hai đều không nhận thức được ( và sau này mới nhận ra ) họ đang được kéo lại gần nhau hơn bao giờ hết. Hóa ra không chỉ có người Đức chờ đợi Hitler mà thôi ( còn có cả Stalin nữa – ND ) .


ĐỐI MẶT

Vào thứ bảy, ngày 21 tháng 6, năm 1941, Stalin sải bước trong văn phòng của ông ở điện Kremlin với những bước đi ngắn thường thấy và tay cầm chặt chiếc tẩu thuốc. Bên trong kiến trúc hình tam giác của điện Kremlin, Thượng viện Hoàng gia đã hình thành một pháo đài hình tam giác và phía bên cánh của Stalin là một pháo đài nằm trong số những pháo đài dày đặc. Thậm chí những cán bộ của chế độ với thẻ ra vào điện Kremlin thông thường cũng phải cần giấy phép đặc biệt để đi vào khu vực của Stalin, nơi đó được những người bên trong của chế độ biết đến với cái tên là “ Góc Nhỏ ” . Những bức tường trong các văn phòng được lót những bản gỗ cao ngang vai, có ý kiến cho rằng hơi từ gỗ giúp tăng cường chất lượng của không khí và những chiếc thang máy được gắn những ô gỗ Mahogany. Phía sau bàn làm việc của Stalin có treo chân dung của Lenin. Trên một góc bàn, ông trưng bày chiếc mặt nạ của Lenin đeo khi qua đời. Một cái bàn nhỏ khác có gắn nhiều chiếc điện thoại, “ Stalin ” , ông sẽ trả lời như vậy khi bắt điện thoại lên. Bên cạnh cái bàn có để một cái bát với nhiều trái cây tươi. Ở phía sau căn phòng có một cánh cửa dẫn đến phòng thư giãn ( mặc dù căn phòng này hiếm khi được sử dụng với mục đích như vậy ) với những bức bản đồ thế giới to tướng treo trên tường. Ở căn phòng làm việc chính, chính giữa 2 trong 3 cánh cửa sổ lớn dùng để đón ánh nắng mặt trời vào buổi chiều, có một chiếc ghế da dài màu đen nơi mà lúc tâm trạng vui vẻ, Stalin thường thưởng thức chút trà chanh ở đó.

Trong suốt nhiều năm, những người được diện kiến với ông thường đồn đoán rằng ông bước đi để kiểm soát tính khí bốc đồng của mình, hay nói cách khác là để làm nản lòng những người làm việc dưới quyền ông. Lúc nào cũng vậy, ông luôn là người duy nhất đứng trong phòng bước qua bước lại, lén tới những người đang nói chuyện. Chỉ một số ít người thân cận mới biết rằng Stalin chịu những cơn đau gần như liên tục ở những khớp chân của ông, triệu chứng có thể do ảnh hưởng của di truyền và việc di chuyển sẽ giúp cơn đau phần nào được giảm bớt. Stalin cũng thường đi bộ quanh điện Stalin, thường là đi một mình, sờ vào những chiếc lá trên cành cây và đuổi những con quạ đen bay đi. ( Sau đó, lính canh sẽ đến và giết những con quạ đó ) . 

Thượng viện Hoàng gia được xây dựng từ một nữ hoàng gốc Đức của Nga, Catherin Đại Đế với mục tiêu “ mang lại thắng lợi cho Đế quốc Nga ” . Vài thập niên sau khi khánh thành, vào đầu mùa thu năm 1812 , Napoleon cùng đội quân xâm lược đã kéo đến đây. Những thành viên trong đội quân chủ lực của Pháp là Grande Armée – bao gồm nhiều người theo đạo Tin Lành và Công giáo đến từ Đức, Ý, Ba Lan – đã đào thoát từ những nhà thờ của Giáo hội chính thống Kremlin và ra sức phỉ báng vào những biểu tượng tôn giáo. Cuối cùng dưới sự chống cự khôn ngoan của người Nga khiến cho những lực lượng xâm lăng phải khổ sở vì đói, trước khi rút quân, một lực lượng của Napoleon đã ra lệnh nghiền nát điện Kremlin thành từng mảnh. Những cơn mưa xối xả đã hạn chế được thiệt hại nhưng những chất nổ đã phá hủy một số phần trên những bức tường và những pháo đài. Sau đó Thượng viện Hoàng gia phải chịu một đám cháy lớn.

Những hành lang dài được trải thảm đỏ xung quanh Góc Nhỏ với sự có mặt khắp nơi của đội lính gác. “ Xem thử có bao nhiêu lính canh ở đây ? ” Stalin hỏi một viên chỉ huy quân đội. “ Mỗi lần tôi đi qua hành lang này, tôi đều nghĩ, tên này ? Nếu là tên này, hắn ta sẽ bắn tôi từ phía sau, và nếu là một tên khác ở lối rẽ kia, hắn sẽ bắn tôi từ phía trước. ” Viên tướng đó đã rất kinh ngạc bởi sự hoang tưởng như vậy : sau tất cả, đã không có bất kì một cuộc ám sát thuần túy nào đối với Stalin. Nhưng “ người đàn ông Sắt đá này ” – “ sâu hơn cả đại dương, cao hơn dãy Himalaya, sáng hơn cả vầng thái dương, người thầy của vũ trụ, ” theo lời nhận xét của một nhà thơ từ Kazakh – đang bị theo dõi từ xa.

Mùa hè của năm 1941, dường như rõ ràng là Hitler sẽ giành chiến thắng trong thế chiến thứ hai. Ông ta đã sáp nhập quê hương Áo của mình vào Đức và cả những vùng đất của Czech, phần lớn Ba Lan, một dải đất của Lithuania, tất cả tạo nên một nước Đức còn rộng lớn hơn cả nước Đức của Otto von Bismarck vào năm 1871 sau khi ông này tiến hành thận trọng cuộc chiến thống nhất nước Đức ( khi cho rằng sự tồn tại của Đế quốc Áo-Hung là cần thiết cho chiến lược cân bằng quyền lực ) . Những lực lượng của Hitler đã đánh chiếm được vùng Balkans, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Na-uy, và miền bắc nước Pháp; cùng với việc thu phục những lãnh đạo trung thành với “ lãnh tụ ” cai trị các nước Bulgaria, Croatia, Phần Lan, Hungary, Ý, Romania, và Tây Ban Nha. Hitler đã kiểm soát những nơi trọng yếu của Châu Âu từ eo biển Anh ở phía Tây đến biên giới phía Đông của Liên Xô ; chỉ có Thụy Điển và Thụy Sĩ vẫn còn giữ trạng thái trung lập, nhưng cả 2 đều đang có hợp tác kinh tế với Đức Quốc xã. Thật vậy, chỉ còn người Anh cứng đầu là vẫn từ chối những điều khoản hợp tác nhưng London không bao giờ có thể lật đổ được sự thống trị lục địa Châu Âu của Berlin.

Stalin vẫn đang quan sát chặt chẽ hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô được ký kết vào tháng 8 năm 1939. Vào thời điểm đó, Hitler đã quyết định xâm chiếm Ba Lan bằng vũ lực để ngăn ngừa việc thành lập một liên minh chống Đức giữa Liên Xô, Pháp và Anh. Stalin đòi được những điều khoản có lợi nhất. Khi đội quân của Hitler tung hoành hầu hết các lãnh thổ của Châu Âu, Stalin đã tránh đụng độ với sức mạnh quân sự của Đức và lợi dụng tình hình đó, Liên Xô xâm chiếm và sớm sáp nhập các nước vùng Baltic, đông Ba Lan, và các vùng Đông Âu của Bukovina và Bessarabia. Hơn thế nữa, thông qua việc trao đổi ngũ cốc và dầu, Stalin nhận về những thiết bị máy móc hiện đại và những vũ khí tối tân từ nước Đức.

Việc thử nghiệm chính sách đối ngoại đầy rủi ro của Stalin đã cho thấy rõ ông là một kẻ ranh mãnh cũng như cơ hội, tham lam, và cứng rắn. Chiến thuật của ông trước sau như một : chuẩn bị chiến tranh với việc xây dựng lực lượng vũ trang ở quy mô lớn, tuy vậy phải làm tất cả có thể để tránh giao chiến trong khi chờ đợi Anh và Đức triệt tiêu lẫn nhau. Chiến lược này đã có tác dụng cho đến khi Đức – vì được cung cấp nguồn nguyên liệu thô dồi dào từ Liên Xô – đã chiếm được nước Pháp vào mùa hè 1940, và lúc này Đức đã rảnh tay để hướng lực lượng của mình về phía Liên Xô. Hai đối thủ về địa-chính trị và ý thức hệ, sau kết quả của việc chia sẻ tối đa sự mở rộng lãnh thổ của mình, đã đến lúc phải đối đầu với nhau.

Giờ đây, sau gần nửa năm lan tràn những tin đồn trái ngược về một khả năng xâm lược của nước Đức đối với Liên Xô, lực lượng tình báo đã cảnh báo về một cuộc chiến tranh khổng lồ sắp xảy ra và nó đang đến gần từ mọi hướng. Ở Moscow, các nhân viên trong tòa đại sứ của Đức được lệnh di tản, họ tất bật thu nhặt những bức tranh sơn dầu, các tấm thảm cổ và bạc. Lực lượng cảnh sát mật của Xô Viết báo cáo lại rằng lãnh sự quán của Ý cũng vậy, họ đã nhận được những chỉ thị để di tản. Sáng sớm, một nhân viên Liên Xô ở Bulgaria báo cáo rằng một gián điệp của Đức bảo sẽ có “ một cuộc đối đầu quân sự được dự tính xảy ra vào ngày 21 hoặc 22 tháng 6 ” . Lãnh đạo cộng sản của Trung Quốc là Chu Ân Lai cũng tình báo cho những viên chức ở Comintern, một tổ chức cộng sản quốc tế, nói rằng đối thủ chính trị trong nước của ông là Tưởng Giới Thạch “ khẳng định chắc chắn rằng Đức sẽ tấn công Liên Xô, và thậm chí còn đưa ra thời gian cụ thể là : ngày 21 tháng 6, năm 1941 ! ” Điều này đã thúc giục người đứng đầu của Comintern gọi ngay cho Molotov. “ Tình hình vẫn chưa rõ ràng, ” Molotov bảo ông. “ Có một cuộc chiến lớn đang được tiến hành và có những chuyện chúng ta không thể tự quyết định được ” .


TIN GIẢ

Đó là một ngày nóng bức, ngột ngạt, viên sĩ quan phụ tá hàng đầu của Stalin, tướng Alexander Poskryobyshev đang đổ mồ hôi nhể nhại, cửa sổ của ông để mở nhưng bên ngoài những chiếc lá trên cành vẫn đứng yên phẳng lặng. Là con trai của một người thợ giày, giống như ngài lãnh tụ mà ông đang phục vụ, văn phòng của Poskryobyshev nằm ngay ở mặt ngoài mà những vị khách nào vào diện kiến Stalin cũng phải đi qua, và lúc nào cũng vậy họ sẽ hỏi ông những câu hỏi như – “ Ông biết vì sao ngài lãnh tụ gọi tôi vào không ? ” , “ Tâm trạng của ông ấy bây giờ như thế nào ? ” – và ông chỉ trả lời ngắn gọn, “ Ông sẽ biết thôi. ” Ông ta là người không thể thay thế, trả lời mọi cuộc gọi đến và xử lý những đống giấy tờ đúng theo cách mà ngài lãnh tụ mong muốn. Nhưng Stalin đã lệnh cho Lavrenti Beria, người đứng đầu lực lượng cảnh sát mật đáng sợ, bỏ tù người vợ thân yêu của Poskryobyshev vì đi theo chủ nghĩa “ Trotskyite ” vào năm 1939. ( Beria đã gửi một giỏ lớn trái cây cho 2 người con gái của họ, sau đó Stalin đã xử tử mẹ của chúng. )

Poskryobyshev đặt thông tin tình báo mới nhất, được chuyển từ một người đưa tin ngoài trận địa lên bàn làm việc của Stalin. Hầu hết những thông tin này đều là tin đồn chứ không phải là những tài liệu nào đó được đánh cắp. Những báo cáo có vẻ trái ngược nhau làm phức tạp thêm tình hình với những thông tin hoàn toàn sai lệch, và việc này thường đem đến sự nghi ngờ. Ở London, đại sứ của Liên Xô ở Vương Quốc Anh đã viết một bản báo cáo rằng ông xem xét một cuộc tấn công từ người Đức là “ không thể xảy ra ” cho dù đã nhận được thông tin trái ngược từ sự chặn đứng của người Anh về những liên lạc bí mật của quân đội Đức. Tuy nhiên, viên Đại sứ của Liên Xô ở Đức, sau nhiều tháng do dự, cuối cùng quả quyết rằng những hành động của Đức báo hiệu một cuộc xâm lăng sắp xảy ra. Nhưng Stalin đã kết luận một cách rõ ràng rằng viên chức ngoại giao của ông ở Berlin đã bị những thông tin sai lệch đánh lạc hướng và nhận xét rằng ông ta “ không phải là một người thông minh ” .

Đối với Stalin, câu hỏi đặt ra không phải là liệu cuộc chiến với Đức Quốc xã có thể tránh được hay không mà là làm thế nào để tránh cuộc chiến đó xảy ra vào năm nay ( năm 1941 ) . Càng lúc càng có nhiều hơn các bằng chứng cảnh báo về cuộc xâm lăng xuất hiện trên bàn làm việc của ông, nhưng 14 ngày cụ thể được lực lượng tình báo xem là ngày Đức sẽ tấn công đã bị loại trừ. Những khả năng còn lại chỉ còn “ 22 - 25 tháng 6 ” và “ 21 hoặc 22 tháng 6 ” . Khoảng thời gian cho một cuộc xâm lăng sẽ sớm đóng lại bởi vì không bao lâu nữa mùa đông sẽ đến và Stalin chắc chắn được yên ổn thêm một năm nữa.

Tất nhiên, những cảnh báo về cuộc chiến sắp tới thậm chí còn tràn ngập ở khắp các mặt báo trên thế giới. Nhưng Stalin biết rõ công dụng của báo chí, và ông ta đã giật những cái tít đầy kinh hãi để gieo vào đó sự khiêu khích cho đối phương. Ông lập luận rằng người Mỹ và người Anh không muốn gì hơn việc Đức và Liên Xô sẽ bị cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh. Tất nhiên là ông đã đúng. Nhưng sau đó ông đã phớt lờ tất cả những cảnh báo về cuộc tấn công của người Đức. Ông biết rằng nước Đức đang trải qua sự thiếu thốn nghiêm trọng và cho rằng họ vẫn cần nhiều nguồn tiếp tế hơn nữa từ Liên Xô, vì vậy một cuộc xâm lược của người Đức đồng nghĩa với việc tự sát bởi vì họ sẽ không còn được nhận những nguồn cung cấp đó nữa. Stalin còn biết xa hơn, đó là nước Đức bại trận ở thế chiến thứ nhất bởi vì họ phải chiến đấu ở cả hai mặt trận Đông-Tây , vì thế ông cho rằng người Đức hiểu rằng sẽ là tự sát nếu họ tấn công Liên Xô ở phía Đông khi vẫn chưa khuất phục được nước Anh ở phía Tây.

Kiểu suy luận như vậy đã trở thành một cái bẫy cho Stalin khiến ông ta kết luận rằng việc xây dựng lực lượng quân đội khổng lồ của người Đức ngay trước cửa ngõ của Liên Xô không phải là dấu hiệu cho một cuộc tấn công sắp xảy ra mà là Hitler đang cố gắng hăm dọa Stalin để buộc ông phải nhường lãnh thổ và nhượng bộ mà không cần phải chiến đấu. Thực tế đó là một chiến dịch tung tin giả thông minh của Đức Quốc Xã và đã đánh lừa được mạng lưới gián điệp toàn cầu của Liên Xô với những báo cáo không ngớt về việc Đức đòi hỏi rằng sẽ theo đuổi việc xây dựng một lực lượng quân đội khổng lồ ở phía Đông. Thậm chí lực lượng tình báo giỏi nhất của Stalin cũng cho rằng việc chiến tranh đang đến chỉ là đòn hăm dọa. Nếu điều này là đúng thì chiến tranh không còn cần thiết nữa.

Vì thế khi Stalin chỉ trích lực lượng tình báo của ông đã bị đầu độc bởi những thông tin sai lệch thì ông đã đúng. Nhưng vị lãnh đạo độc tài này cũng không biết phần nào là giả và phần nào là chính xác. Vì thế ông gán cái tên “ tin giả ” cho bất kì thông tin nào mà ông quyết định không tin vào.


THỜI ĐIỂM LÀ ĐÊM NAY

Stalin nhận thức cao độ về những thực tế này, nhưng sau đó tính khí bất thường của nhà lãnh đạo đã lấn áp tất cả. “ Stalin cảm thấy bị khiêu khích và tức giận bởi những báo cáo không ngớt ( bằng miệng và văn bản ) về sự xuống cấp trầm trọng trong mối quan hệ với nước Đức, ” sĩ quan hải quân Nikolai Kuznetsov của Liên Xô hồi tưởng về giai đoạn này. “ Ông ấy cảm thấy rằng mối nguy hiểm đang cận kề ” , Nikita Khrushchev nhớ lại, thời điểm đó ông đang là bí thư thứ nhất của Đảng cộng sản ở Ukraine và đã ở Moscow trong suốt tháng 6 định mệnh đó. “ Đất nước chúng ta có thể xử lý chuyện này không ? Đội quân của ta có thể chiến thắng không ? ”

Ngày 21 tháng 6 năm đó là ngày Hạ Chí, một ngày dài nhất trong năm – và dường như nó kéo dài vô tận. Vào lúc 5 giờ chiều, Stalin ra lệnh cho tất cả các bí thư của Đảng ở các quận của Moscow phải ở nguyên vị trí của họ. Vào lúc 6 : 27 chiều, Molotov bước vào “ Góc Nhỏ ” – là người đến đầu tiên, như thường lệ. Lúc 7 : 05 chiều, lần lượt Beria, Kuznetsov, Geogry Malenko ( một ủy viên cấp cao của Đảng cộng sản, đứng đầu ban tổ chức Đảng ) , Grigory Safonov ( một phó tổng kiểm sát trưởng trẻ đảm trách những tòa án quân sự ) , Semyon Timoshenko ( một viên chỉ huy quân đội cấp cao ) , Kliment Voroshilov ( phó lãnh đạo chính phủ ) , và Nikolai Voznesensky ( trưởng ban kế hoạch nhà nước ) bước vào văn phòng của Stalin. Cuộc thảo luận chủ yếu xoay quanh những mức độ tiến triển gần đây của cuộc chiến sắp tới và sự khiếp sợ của Stalin về các hành động khiêu khích của Đức có lẽ đã cho thấy điều tồi tệ sắp xảy ra.

Một điều đáng chú ý là lực lượng của Đức đã chiếm được những vị trí thuận lợi còn Hồng quân của Liên Xô thì không. Stalin thừa nhận đã che đậy chiến lược tái bố trí lực lượng bên trong vùng biên giới phía Tây nhưng ông ta không cho phép lập ra những giả định về các vị trí cho trận chiến vì ông ta sợ rằng việc này sẽ có lợi cho đội quân hiếu chiến đang rất nôn nóng ra trận của Đức và thúc giục Hitler ra lệnh. Những phi cơ của Liên Xô không được phép bay qua vùng biên giới quá 6 dặm. Timoshenko, Georgy Zhukov và một viên chỉ huy quân đội cấp cao phải đảm bảo rằng các sĩ quan ngoài chiến trường không được có những hành động gây hấn với đối phương. Beria nhận nhiệm vụ của một tay sát nhân bằng việc tổ chức “ một lực lượng chiến đấu dày dạn trận mạc để chống lại bất kì cuộc đụng độ biên giới nào có thể được sử dụng như cái cớ để phát động chiến tranh ” . Những viên chỉ huy của Liên Xô có thể bị xử tử bởi chính phe của họ nếu lực lượng của họ không chống lại được hỏa lực của phe Đức.

Tình báo của Xô Viết báo cáo rằng không chỉ Đức mà cả những nước đồng minh phía đông của họ như Phần Lan, Hungary, Romania và Slovakia cũng đã sẵn sàng cho cuộc tổng tấn công. Nhưng Stalin vì trước đó đã không tin vào chuyện này nên giờ đây đã hoàn toàn bị sốc. Cứ mỗi hành động của Stalin đều được Hitler sử dụng như một cái cớ để phát động chiến tranh.

Vào lúc 7 giờ tối , Gerhard Kegel, một gián điệp của Liên Xô tại lãnh sự quán Đức ở Moscow đã đánh liều mạng sống của mình lén ra ngoài báo cho một quan chức Liên Xô là những nhân viên của Đức sống bên ngoài lãnh sự đã được lệnh phải vào trong đại sứ quán ngay lập tức và “ tất cả đều nghĩ rằng đêm nay cuộc chiến sẽ xảy ra ” . Lúc 8 giờ tối , một người đưa thư đến cho Stalin, Molotov và Timoshenko, thông tin tình báo này được niêm phong cẩn thận trong phong bì. Trong “ Góc Nhỏ ”, Kuznetsov, Safonov, Timoshenko, Voroshilov, và Voznesensky rời căn phòng lúc 8 : 15 , Malenkov cũng rời khỏi sau đó 5 phút. Không có điều gì quan trọng được quyết định.

Zhukov gọi điện vào văn phòng thông báo rằng một tên lính Đức nữa đã bị phát hiện là đang vượt qua biên giới và cảnh báo là cuộc xâm lược sẽ diễn ra trong vài tiếng nữa. Đây chính xác là loại “ khiêu khích ” mà Stalin sợ nhất. Ông ra lệnh triệu Zhukov vào điện Kremlin cùng với Timoshenko vừa mới ra khỏi đó. Họ bước vào phòng của Stalin lúc 8 : 50 trong khi Molotov và Beria lặp lại những lời phản bác của Stalin là Hitler chuẩn bị tấn công. Khi Stalin vẫn từ chối không tin, họ nghĩ là có lẽ là ông đã biết được những thông tin tối mật nào đấy. Trong bất kì trường hợp nào, họ hiểu cái giá của việc làm mất đi lòng tin của ông. “ Mọi người đều ghi nhớ những sự kiện xảy ra trong những năm gần đây, ” Zhukov sau đó nhớ lại. “ Và tôi muốn nói rõ ràng rằng Stalin đã sai, đó là lỗi của ông ấy, nói một cách thẳng thắn là vậy, có nghĩa là nếu không rời khỏi cung điện đó, bạn sẽ đi uống cà phê với Beria. ” ( ám chỉ là nếu ông nói trái ý Stalin thì sẽ bị xử tử cùng với Beria – ND ) .

Tuy nhiên, cả hai người này đã dùng những lời cảnh báo của những kẻ đào ngũ để thúc giục một cuộc tổng động viên – tương đương với chiến tranh trong tâm trí của Stalin. “ Không phải là những tướng tá của Đức đã cho những kẻ đào ngũ đó vượt qua biên giới để xúi giục một cuộc xung đột sao ? ” , Stalin hỏi. “ Không phải ”, Timoshenko trả lời. “ Chúng tôi nghĩ những tên đào ngũ đó đang nói thật. ” Stalin : “ Giờ chúng ta phải làm gì ? ” Timoshenko im lặng một lúc. Cuối cùng, ông đề xuất, “ Đặt báo động cao cho lực lượng ở biên giới phía tây. ” Ông và Zhukov đã đi đến việc chuẩn bị một bản thảo chỉ thị.

Stalin đã thử liên lạc với Hitler, thậm chí ông còn mong chờ những đòi hỏi từ Hitler sẽ gửi đến cho ông. “ Molotov xin phép được bay đến Berlin nhưng đã bị từ chối. ” Joseph Goebbels, trưởng bộ máy tuyên truyền Quốc xã đã viết trong cuốn nhật ký của mình vào ngày 18 tháng 6. “ Một lời đề nghị ngây thơ. ”

Hitler sợ rằng nhà lãnh đạo xảo quyệt của Liên Xô sẽ bằng cách nào đó biết được âm mưu tấn công và đơn phương đề xuất những nhượng bộ không có tiền lệ cho Đức. Stalin có vẻ đã thảo luận về những nhượng bộ có thể cho phép đối với Molotov, nhưng nếu điều đó xảy ra thì lại không có tài liệu nào nói về việc này. Rõ ràng là Stalin đã mong đợi người Đức sẽ đòi hỏi những mỏ dầu ở Caucasian, vùng Ukraine, và mượn đường cho quân Đức được đi qua lãnh thổ Xô Viết mà không bị cản trở để chiến đấu với người Anh ở vùng Cận Đông và Ấn Độ. Stalin có thể đã công khai khẳng định thiện chí của mình tham gia vào lực lượng chống nước Anh, cố gắng trả thù chống lại cường quốc mà ông căm thù nhất, và quan trọng hơn, phủ nhận lý lẽ của Hitler về việc người Anh đang chống lại nước Đức với sự tham gia hỗ trợ từ Liên Xô. Thay vào đó, hoặc song song với điều này, Stalin đã có thể bắt đầu rút hoàn toàn các lực lượng của Xô Viết từ vùng biên giới về sâu trong lãnh thổ, điều này sẽ phản bác lại luận điệu chiến tranh mà các lãnh đạo của Đức Quốc xã tuyên truyền cho công chúng nước này : một “ cuộc tấn công ngăn chặn ” chống lại “ việc tăng cường vũ trang của Xô Viết ” .

Thay vì thực hiện một phản ứng khéo léo, Stalin vẫn giữ niềm tin rằng Đức không thể tấn công Nga khi vẫn chưa đánh bại được nước Anh mặc dù người Anh không có lực lượng đóng trên lục địa và cũng không có ý định bảo vệ lãnh thổ nào ở đây cũng như chuẩn bị tấn công nơi này. Stalin giả định rằng trong trường hợp Hitler đưa ra đòi hỏi của mình thì ông có thể câu thêm thời gian thông qua đàm phán : nhân nhượng nếu những đòi hỏi có thể nhượng bộ được và do đó có thể ngăn chặn chiến tranh xảy ra, hoặc nhiều khả năng là sẽ kéo dài những cuộc đối thoại ra xa ngày mà Hitler đã dự định phát động cuộc xâm lược. Như vậy Stalin sẽ có thêm một năm quan trọng nữa, trong khoảng thời gian này công nghệ quân sự của Hồng quân sẽ cải tiến hiện đại hơn. Nếu thất bại, Stalin đi sâu hơn, nếu xung đột xảy ra, người Đức sẽ cần thêm ít nhất 2 tuần để huy động toàn bộ lực lượng xâm lược tinh nhuệ nhất , điều này giúp cho ông có thêm thời gian để huy động lực lượng. Khi những gián điệp của ông ở Berlin và những nơi khác báo cáo rằng quân đội Đức đã “ hoàn tất mọi công tác chuẩn bị chiến tranh ” thì ông không hiểu rằng điều này có nghĩa là người Đức sẽ mang toàn bộ lực lượng tinh nhuệ của mình vào cuộc chiến ngay từ ngày đầu tiên.


CHIẾN DỊCH BARBAROSSA BẮT ĐẦU

Trong văn phòng của Stalin, trong khi cuộc thảo luận giữa Stalin với Timoshenko và Zhukov đang khá nóng bỏng, Molotov bước ra khỏi phòng. Stalin đã nhờ ông triệu tập đại sứ Đức là Friedrich Werner von der Schulenburg đến Thượng viện Hoàng gia cho một cuộc gặp vào lúc 9 giờ 30 tối . Friedrich đến rất sớm, ông trực tiếp giám sát việc đốt hết các tài liệu mật ở đại sứ quán. Các phái viên ngoại giao rất thất vọng về việc hiệp ước của Hitler - Stalin , hiệp ước mà ông là một cầu nối quan trọng trong việc hình thành nó, đã trở thành một công cụ không phải cho việc đàm phán về vấn đề chia cắt Ba Lan để tránh chiến tranh mà lại là một sự khởi đầu cho một cuộc chiến tranh thế giới nữa. Giờ đây ông lo sợ về cuộc chiến Xô - Đức đang được đồn thổi rất nhiều sẽ xảy ra, ông đã đích thân bay về Berlin để gặp Hitler và cố gắng thuyết phục về những biểu hiện hòa hiếu của Stalin nhưng bất thành. Trong cơn tuyệt vọng, Schulenburg đã gửi cố vấn lãnh sự của ông về Berlin để thử thêm một lần nữa, nhưng mọi chuyện vẫn không khá hơn.

Molotov yêu cầu được biết tại sao Đức lại tiến hành sơ tán các nhân viên của mình do đó đã thổi bùng lên những đồn đoán về chiến tranh sẽ xảy ra. Ông trao tận tay Schulenburg một lá thư phản đối chi tiết về những vi phạm có hệ thống của Đức đối với không phận của Liên Xô và đã thẳng thắng nói rằng “ chính phủ Xô Viết không thể hiểu được nguyên nhân về sự bất mãn của Đức trong quan hệ với Liên Xô nếu như có một sự bất mãn như thế tồn tại ” . Ông ta cũng phàn nàn rằng “ không có bất kì lý do gì khiến cho chính phủ Đức phải bất mãn với Nga cả ” . Schulenburg đáp lại “ tôi đang cố gắng làm rõ những vấn đề này ” .

Trong cuộc viếng thăm cấp nhà nước đến Đức vào tháng 11 năm 1940, Molotov đã cùng sánh vai với Hitler trong văn phòng thủ tướng mới xây vô cùng đồ sộ và cùng tranh luận về sự bất đồng trên các vùng ảnh hưởng ở Đông Âu. “ Tôi chưa từng chứng kiến có vị khách ngoại quốc nào nói chuyện với Hitler kiểu như vậy ” , người thông dịch cho Hitler sau này viết lại. Nhưng bây giờ Molotov chỉ có thể thể hiện rất nhiều lần sự hối tiếc rằng Schulenburg đã “ không thể trả lời những câu hỏi được nêu ra ” .

Molotov vào lại văn phòng của Stalin. Bất thình lình khoảng 10 giờ tối , trong cái sức nóng đầy ngột ngạt ấy, những cơn gió đột nhiên thổi mạnh vào phòng làm tung những chiếc rèm trên những cửa sổ đang mở toang. Sau đó là những tiếng sấm chớp liên hoàn và Moscow bắt đầu chịu những cơn mưa xối xả.

Cuối cùng, Stalin cũng xuống nước trước phản đối của những cấp dưới và chấp thuận bản thảo chỉ thị của họ. Timoshenko và Zhukov chạy vội ra khỏi văn phòng của Stalin lúc 10 : 20 tối , cuối cùng một chỉ thị về việc tổng động viên cho chiến tranh đã được ban hành, đó là Chỉ thị số 1. “ Một cuộc tấn công bất ngờ của quân Đức có thể sẽ xảy ra vào ngày 22 - 23 tháng 6 năm 1941 ” , chỉ thị khẳng định. “ Nhiệm vụ của quân đội chúng ta là hạn chế bất kì những hành động khiêu khích nào có thể gây ra làm phức tạp thêm tình hình ” . Bản Chỉ thị yêu cầu rằng “ trong suốt đêm của ngày 22 tháng 6 năm 1941, tất cả những vị trí thuận lợi của những khu vực trọng yếu trong vùng biên giới phải được chiếm cứ một cách bí mật ” và “ trước rạng sáng ngày 22 tháng 6, 1941, tất cả các chiến đấu cơ trong các lực lượng không quân phải được phân tán và ngụy trang khéo léo ” , “ tất cả các đơn vị phải ở trong trạng thái chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, ” và “ không được thực hiện bất kì hành động nào khác khi chưa có những chỉ dẫn cụ thể. ” Bản chỉ thị có kèm theo chữ ký của Timoshenko và Zhukov. Những viên chỉ huy đã cố gắng xóa bỏ phần thêm vào của Stalin đó là nếu quân Đức tấn công, các chỉ huy của Xô Viết phải cố gắng gặp họ và dàn xếp những xung đột. Tuy nhiên, bản chỉ thị đã nêu rõ ràng là các lực lượng quân đội phải sẵn sàng cho cuộc chiến đồng thời làm mọi thứ có thể để tránh chiến tranh xảy ra.

Khoảng nửa đêm, chỉ huy quân sự khu vực Kiev đã gọi dân quân tự vệ báo cáo về một cuộc vượt biên nữa của quân Đức, khẳng định rằng các binh lính Đức đã chiếm lấy những vị trí khai hỏa của họ bằng xe tăng. Khoảng 12 giờ đồng hồ trước, lúc 1 giờ chiều , một chỉ huy cấp cao của Đức đã truyền một mật lệnh cho chiến tranh, “ Dortmund ” . Chiều hôm đó, Hitler thảo một bức thư giải thích quyết định tấn công Xô Viết của ông đến các lãnh đạo của các nước đồng minh của Đức Quốc xã. Nicolaus von Below, một sĩ quan của Hitler đã chú ý về việc “ lãnh tụ ” của ông đang “ cực kì lo lắng và suốt ruột. Hitler nói rất nhiều, đi tới đi lui ; ông ấy không được kiên nhẫn lắm và có vẻ đang chờ đợi một điều gì đó ” . Khi còn ở trong văn phòng Thủ tướng cũ, Hitler đã thức trắng 2 đêm liên tiếp. Ông dùng bữa tại phòng ăn và nghe “ Les Preludes ”, một bài thơ của Franz Liszt. Ông cho gọi Goebbels, người cũng vừa xem xong bộ phim “ Cuốn theo chiều gió ”. Cả hai cùng đi qua đi lại trong phòng vẽ của Hitler trong một lúc khá lâu, họ cố gắng hoàn tất nội dung và thời điểm của bản tuyên bố chiến tranh của Hitler vào ngày hôm sau. Bản tuyên bố này sẽ tập trung vào việc “ bảo vệ Châu Âu ” và tiêu diệt những lực lượng nguy hiểm không thể chờ được nữa. Goebbels rời khỏi đó lúc 2 : 30 sáng và trở lại bộ tuyên truyền nơi mà những nhân viên của ông đang đợi. “ Tất cả mọi người đều hết sức ngạc nhiên, ” ông viết trong cuốn nhật ký, “ thậm chí đối với những người đã biết được một nửa kế hoạch hoặc cả những người biết tường tận kế hoạch đó ” . Người Đức đặt tên cho cuộc xâm lược là “ Chiến dịch Barbarossa ”. Bây giờ nó đã bắt đầu. 

Hầu hết những lực lượng tiền tuyến của Liên Xô đã không nhận được Chỉ thị số 1. Những đơn vị chủ lực của Đức, nhiều trong số đó ngụy trang bằng cách mặc lên người đồng phục của Hồng quân, đã vượt qua biên giới và sau đó phá hủy hệ thống liên lạc của Liên Xô. “ Bắt đầu một cuộc chiến tranh cũng giống như lúc mở cửa vào một căn phòng tối vậy, ” Hitler nói với thư ký riêng của ông. “ Chúng ta sẽ không biết điều gì ẩn sâu trong màn đêm đen tối đó. ”


ẢO TƯỞNG SỨC MẠNH

Chế độ của Stalin sao chép lại một khuôn mẫu đã được in sâu xuyên suốt trong lịch sử của nước Nga : Giới cầm quyền ở Nga thường phát động những công cuộc hiện đại hóa ép buộc để vượt qua hoặc ít nhất giải quyết được tình trạng chậm phát triển của một đất nước tự xem mình là cường quốc với một sứ mệnh đặc biệt nhưng thực chất đang bị tụt hậu quá xa so với các cường quốc khác. Thêm một chiến dịch cần phải làm ngay vì một nhà nước vững mạnh, một lần nữa, lại lên tới đỉnh điểm của sự thống trị cá nhân. Chế độ của Stalin đã định nghĩa lại khái niệm về tư tưởng của công chúng và bản sắc cá nhân, chính Stalin cũng đã cá nhân hóa những cuồng nhiệt và ước mơ về một xã hội chủ nghĩa hiện đại cũng như một nhà nước Xô Viết hùng mạnh. Chỉ với những bức điện và những cuộc gọi ngắn gọn, ông ta có thể thúc đẩy được bộ máy cồng kềnh của Đảng - nhà nước Xô Viết vào các chương trình hành động bằng những thông điệp mang tính kỉ luật và đe dọa, cũng như làm kích động những công chức trẻ tuổi có cảm tình gần gũi với ông hay hàng triệu người khác chưa từng gặp mặt ông phải vào guồng.

Chế độ của Stalin không chỉ cam kết xây dựng một nhà nước hiện đại mà còn làm cho xã hội ưu việt hơn cả hệ thống thị trường và tư hữu của các lực lượng chống đối và thế lực ngoại bang – một hình thái xã hội mới của giai cấp tư sản, cũng như đấu tranh cho công bằng xã hội trên quy mô toàn cầu. Trong thế giới quan cũng như từ thực tiễn cho thấy, có một âm mưu được cho là có mặt khắp mọi nơi liên tục chống lại chính quyền Xô Viết. Trong việc quản lý, chính phủ đã thiết lập một cuộc vận động cho việc lập kế hoạch và kiểm soát để kết thúc việc gia tăng của những hoạt động phạm pháp, động cơ sai trái, và một hệ thống trong đó việc tuyên truyền và những huyền thoại về “ bộ máy ” là phần được tập trung nhiều nhất. Giữa đỉnh điểm của sự mơ hồ và sai lầm hiển nhiên đó, những quan chức cao cấp nhất thậm chí đã biến chất trong nghiên cứu về điện Kremlin. Sự cuồng tín về việc siêu tập trung hóa thường dẫn đến con đường tự sát, nhưng sự sùng bái về Đảng và đặc biệt về việc không bao giờ sai lầm của Stalin tỏ ra là lỗ hổng nguy hiểm nhất trong phương pháp cai trị sai lầm của Stalin.

Xu hướng của Stalin là một nhà dân tộc Nga theo hướng đế quốc, và chủ nghĩa chống lại phương Tây là động lực cốt lõi của nền văn hóa chính trị lâu dài mang bản sắc Á Đông của người Nga. Ban đầu, chiến dịch đầy tham vọng của Xô Viết nhằm cân bằng sức mạnh với phương Tây trên thực tế đã gia tăng sự phụ thuộc của đất nước này vào công nghệ và bí quyết của phương Tây. Nhưng sau khi thu thập những công nghệ từ nhiều nền kinh tế phát triển ở phương Tây, chế độ của Stalin đã tiến hành phát triển ngành công nghiệp quân sự và những ngành công nghiệp liên quan khác của riêng mình trên một quy mô chưa từng có tiền lệ thậm chí đối với một quốc gia quân sự hàng đầu. Về mặt địa - chính trị, trong khi chế độ Nga Hoàng khi trước đã gia nhập các liên minh nước ngoài để đảm bảo an ninh cho đất nước thì Liên Xô chủ yếu tìm kiếm, hoặc chỉ thiết lập, những hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau mà thôi. Hình thức liên minh chính thức duy nhất của Liên Xô được lập ra với nước Pháp nhưng lại thiếu yếu tố liên minh quân sự. Vì thế, tình trạng tự cô lập của đất nước này trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết.


LỰA CHỌN CỦA HITLER

Đối với Hitler, bản hiệp ước năm 1939 là một sự khó chịu cần thiết mà với may mắn sẽ không tồn tại được lâu. Sự am hiểu về chủ nghĩa chủng tộc, xã hội của Darwin và vấn đề một mất một còn trong địa chính trị của ông có nghĩa là việc hai nước Liên Xô và Anh Quốc bị tiêu diệt sẽ là bằng chứng cho thấy nước Đức mang trong mình số mệnh của một chủng tộc siêu việt. Chắc chắn là trong trung hạn, suy nghĩ của Hitler về vấn đề thống trị lục địa châu Âu sẽ đòi hỏi một “ không gian sinh tồn ” ở phía Đông. Nhưng trong dài hạn, ông ta biết trước việc thống trị thế giới ( Weltmacht ) của mình sẽ cần đến một hạm đội Biển Xanh với những căn cứ ở rìa Đại Tây Dương và một đế chế thuộc địa ở những vùng nhiệt đới cho việc cung cấp nhiên liệu thô. Điều này sẽ xung đột với sự phát triển liên tục của đế chế Anh Quốc, ít nhất là về thực lực của đế quốc Anh trong thời điểm đó. 

Vì thế Hitler buộc phải đặt mình trước một sự lựa chọn khó khăn của việc hoặc là đi sâu hơn vào những thỏa thuận trong bản hiệp ước năm 1939 với Stalin và thách thức toàn bộ đế chế Anh, điều này có nghĩa là thừa nhận phần ảnh hưởng của Liên Xô ít nhất là ở khu vực Balkans và Biển Đen – cộng thêm khu vực của Liên Xô ở Baltics – hoặc một lựa chọn khác là giải phóng ông khỏi sự phụ thuộc đáng ghét vào Moscow và sau đó thách đấu với nước Anh. Cuối cùng, những thực tế về quân sự đã giúp định hình nên chuỗi sự kiện sau đó : Hitler không sở hữu những khả năng không quân và hải quân vượt trội hay chiều sâu về những nguồn lực để áp đảo về mặt quân sự với nước Anh , ông chỉ có những lực lượng bộ binh đủ mạnh để nghiền nát Liên Xô mà thôi.

Một cam kết cho sự giao tranh uy thế kéo dài với người Anh, đất nước mà Hitler đoán là sẽ được nhận ngày càng nhiều nguồn hỗ trợ to lớn từ Hoa Kỳ, đã đẩy nhanh quyết định kết liễu Liên Xô như là màn dạo đầu cần thiết. Hơn nữa, Hitler và những viên chỉ huy cấp cao của Đức hiểu rằng Liên Xô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc tấn công, cuộc xâm lược hay chiến tranh ngăn chặn cũng đều giống nhau theo logic của ông mà thôi, Liên Xô chỉ có thể trở nên mạnh mẽ và là chính họ khi tấn công vào thời điểm mà họ nghĩ rằng mình có lợi thế nhiều hơn. Vì thế vào năm 1940, trong khi hối thúc Nhật Bản tấn công vào những vị trí của nước Anh ở Đông Á, Hitler đã đề nghị chính phủ Anh một kiểu hiệp ước mà ông đã làm với Stalin và dường như đã bị chết lặng khi chính phủ Anh không chấp thuận đề nghị này. 

Lãnh đạo Đức Quốc Xã đã nắm bắt được nếp suy nghĩ của đế quốc Anh, và ông đã thật lòng khi hứa rằng, để đổi lấy sự tự do hành động trên lục địa Châu Âu, ông sẽ giữ nguyên trạng nước Anh một thời gian. Ông tiếp tục hi vọng rằng nước Anh với sự yếu kém rõ ràng về lực lượng quân sự trên đất liền sẽ không thể đánh bại được ông và sẽ sớm đi đến những thỏa thuận với ông. Nhưng Hitler đã thất bại để thấu hiểu sở thích lâu đời của người Anh về một sự cân bằng quyền lực trên lục địa châu Âu ( chiến lược mà an ninh của cả đế chế phần nào phụ thuộc vào đó ) , và ông đã nhận định quá xa về những lợi ích chung giữa London và Moscow hơn là họ nghĩ về chúng.


SỰ SÁNG SUỐT CỦA BISMARCK

Không thể nắm bắt được con người của Hitler nếu chỉ tìm hiểu qua nguồn gốc, cuộc đời hay những ảnh hưởng của ông, một điểm mà ông không kém gì Stalin. Yếu tố chính trong việc hình thành bản sắc của Stalin là việc xây dựng và điều hành thể chế độc tài, thông qua nó ông đảm nhận trách nhiệm của chính quyền Xô Viết đối với thế giới. Trên danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội, Stalin rảo bước trong văn phòng của ông và dần hình thành thói quen luân chuyển hàng triệu nông dân, công nhân, thậm chí toàn bộ cả nước chiếm 1/6 dân số thế giới vào những ý tưởng của ông mà không hỏi ý kiến ai cả. Nhưng thế giới của ông đã trở nên cực kì hẹp hòi và Hitler đã bẫy nhà độc tài Liên Xô vào chính “ Góc Nhỏ ” của ông ta.

Kế hoạch đối phó Hitler của Stalin khác xa chính sách xoa dịu của người Anh, đó là Stalin vừa cố gắng ngăn chặn cũng vừa cố gắng thích nghi. Nhưng chính sách của Stalin cũng có phần tương đồng với sự xoa dịu của người Anh trong việc ông đã bị thúc đẩy bởi ao ước mù quáng tránh chiến tranh bằng mọi giá. Ông đã thể hiện được những năng lực về sức mạnh nhưng lại thiếu quyết tâm, không phải sự kiên quyết đáng sợ cũng như sự khôn khéo được biểu hiện vào năm 1941 , điều đã giúp ông đánh bại được những kẻ thù của mình và nghiền nát những lực lượng chống đối bên trong chính quyền. Ông đã rút khỏi việc cố gắng ngăn chặn Hitler về mặt quân sự cho đến thất bại trong việc thay đổi ý định của ông ta trên phương diện ngoại giao.

Nhưng cuối cùng, câu hỏi ai là người đã tính toán sai không phải là điều dễ trả lời. “ Trong số những người có thể tuyên bố ai là người đã đặt nền móng cho đệ Tam Quốc Xã ” , Hitler thích nói như vậy , “ thì đó là một nhân vật vĩ đại đứng riêng lẻ nhưng đầy cảm hứng : Bismarck ” . Nhưng Bismarck đã tạo nên bản sắc cho nhiệm kì thủ tướng của riêng ông bằng việc tránh xung đột với nước Nga. Khi bức tượng bán thân của Bismarck được chuyển từ Văn phòng Thủ tướng cũ sang Văn phòng Thủ tướng mới, nó đã bị bể ở phần dưới cổ. Một bản sao khác đã được làm vội vã và bị thoái hóa nhân tạo khi nó bị ngâm trong trà lạnh. Không ai khác có thể chia sẻ điềm báo này với Hitler cả.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét