Trang

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020


1 bài viết nói về thời kỳ " Tiền Tam Quốc " tức là những diễn biến xảy ra ở triều đình nhà Hán dẫn tới loạn Tam Quốc về sau này. Bài viết đan xen nhiều sự kiện lẫn con người giúp cho hiểu rõ hơn một vài nhân vật ở thời kỳ Tam Quốc sau đó. Bài viết rất hấp dẫn và lôi cuốn, nghệ thuật viết là nằm ở cách viết sao cho hấp dẫn cho dù đề tài không có gì đặc biệt hoặc đơn giản chỉ là viết lan man, không cố định ở chủ đề nào. Đây là 1 bản dịch từ 1 nguồn khác nhưng dịch rất khéo léo tuy có đôi chỗ rườm rà đã được lược bớt và chỉnh sửa lại để cho dễ theo dõi. Công việc dịch thuật tưởng chừng như đơn giản nhưng không phải ai dịch cũng hay, cũng thanh thoát, có những bản dịch rất tệ, câu cú lủng củng cứ như là " người nước ngoài nói Tiếng Việt " chứ không phải là của người Việt nói Tiếng Việt vậy.



Nhà Hán suy vong như thế nào ?

( nghiên cứu lịch sử )

Rất khó để xác định chính xác thời điểm nhà Hán bắt đầu suy vong và sụp đổ là lúc nào. Triều Hán bắt đầu từ năm 206 TCN với một gián đoạn ngắn vào năm 9 khi bị nhiếp chính Vương Mãng lật đổ lập nên nhà Tân, vì vậy các sử gia thường gọi giai đoạn từ năm 206 TCN đến năm 9 là của nhà Tây Hán, từ năm 25 khi Hán Thất khởi nghĩa lập lại nhà Hán đến năm 220 khi Tam Quốc được thành lập là giai đoạn của nhà Đông Hán. 

Câu chuyện bắt đầu vào năm 144 khi Hoàng đế thứ 8 của nhà Đông Hán, Hán Thuận Đế - Lưu Bảo bất ngờ băng hà, ngôi vị truyền cho người con trai chưa đầy 1 tuổi là Lưu Bỉnh. Lưu Bỉnh chỉ là con riêng của Lưu Bảo với một phi tần chứ không phải của Hoàng hậu Lương Nạp nay đã trở thành Hoàng Thái hậu và nhiếp chính cho triều đình. Trợ giúp bà là anh trai Lương Ký, một tướng quân trong triều. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau thì Hán Xung Đế - Lưu Bỉnh cũng băng hà vào năm 145. Cái chết của Lưu Bỉnh để lại một khoảng trống trên ngai vàng vì đây là người cuối cùng thuộc dòng dõi hoàng tộc chính thống. Khi các đại thần trong triều đang tìm kiếm xem ai sẽ là người kế vị thì họ được Lương Hoàng thái hậu, người đã chuẩn bị kỹ càng phòng khi Lưu Bỉnh không thể sống sót qua mùa đồng khắc nghiệt, gợi ý đến Lưu Toản. Lưu Toản được chọn là bởi vì  :

1 ) cha ông là Bột Hải Hiếu vương - Lưu Hồng, người gần với dòng dõi chính thống nhất. 

2 ) Lưu Toản lúc đó mới chỉ 8 tuổi nên Hoàng thái hậu nghĩ Hoàng đế mới sẽ dễ bề kiểm soát trong khi bà và Lương Ký sẽ tiếp tục cai trị nhân danh nhiếp chính.




Tuy nhiên khi Hán Chất Đế - Lưu Toản đăng cơ thì mọi chuyện không được như ý. Lưu Toản tuy còn nhỏ nhưng rất thông minh, nhanh chóng hiểu chính sự và biết được sự chuyên quyền của Lương Ký, ông đã chửi thẳng mặt Lương Ký trước mặt quần thần là “ một ông tướng ngang ngược ”. Việc này khiến Lương Ký tức giận và nhanh chóng mua chuộc một hoạn quan để đầu độc vào sữa của Hoàng đế, kết quả là Chất Đế băng hà vào năm 146. Nhưng do chất độc mất khá lâu để gây tác dụng nên Lưu Toản đã có thời gian gọi một đại thần mà ông tin tưởng là Lý Cố vào và nói rằng ông nghi ngờ Lương Ký đứng đằng sau việc này, nhưng bởi không có bằng chứng xác thực nên Lý Cố không thể đứng ra chống Lương Ký được và các đại thần phải tiếp tục tìm Hoàng đế mới.

Tuy anh trai Lương Ký lộng hành nhưng Hoàng Thái hậu Lương Nạp lại không hay biết do cả năm bận tổ chức lễ cưới cho em gái là Lương Nữ Oánh và Ngô Lễ hầu - Lưu Chí. Lưu Chí thực chất là cũng một người thuộc dòng dõi hoàng tộc nhưng phụ thân ông do chọc giận Tiên Đế nên bị giáng tước từ vương xuống hầu. Theo lệ thì lễ cưới phải được tổ chức tại nhà chồng nhưng do Lưu Chí cưới em gái của 2 nhiếp chính quyền lực nhất Trung Hoa nên ông phải đi từ Ngô Lễ đến kinh thành Lạc Dương để dự lễ cưới. Điều mà ông chắc chắn không ngờ được là ông sắp trở thành Hoàng đế thứ 3 trong vòng 4 năm liên tục.

Thái hậu Lương Nạp cho rằng nếu đưa Lưu Chí lên làm Hoàng đế thì em gái mình sẽ trở thành Hoàng hậu, giúp củng cố quyền lực cho Lương gia trong nhiều đời, và Lưu Chí lúc đó đã 15 tuổi nghĩa là đủ thông minh để biết rằng không nên chửi nhiếp chính Lương Ký trước mặt bá quan văn võ như Chất Đế 8 tuổi đã làm. Nhưng khi Lưu Chí đến kinh thành Lạc Dương thì lại bị một số đại thần như Lý Cố phản đối, nghi ngờ ông có dính líu tới cái chết của Chất Đế Lưu Toản. Họ đòi đưa cháu 4 đời của Chương Đế là Hạc Khánh vương - Lưu Toán lên ngôi. Do Lưu Toán không chỉ lớn hơn, có thể dễ dàng quản lý đất nước hơn mà còn gần với dòng dõi hoàng tộc hơn Lưu Chí.

Sau khi cả hai phe tranh luận cả ngày trời về việc ai sẽ nối ngôi mà vẫn không có quyết định nào được đưa ra thì mọi người quyết định bãi triều và để cuộc tranh luận ngày hôm sau quyết định.Tối hôm đó trong khi Lương Ký đang suy nghĩ tìm cách để chiến thắng vào ngày mai thì ông được người bạn cũ của mình là Tào Đằng, tổ phụ nuôi của Tào Tháo và là một hoạn quan đầy quyền lực đến thăm. Lương Ký ngay lập tức hiểu rõ chuyến thăm của Tào Đằng là đại diện cho sự ủng hộ của phe hoạn quan, ông hỏi Tào Đằng sẽ ủng hộ ai trong số 2 người. Tào Đằng chỉ đơn giản trả lời rằng Hạc Khánh vương - Lưu Toán là một vị quân vương trong sạch, không tham nhũng, người sẽ rất khó kiểm soát nếu trở thành Hoàng đế.

Thực tế là khi Lưu Toán được triệu đến kinh thành Lạc Dương, Tào Đằng cũng đã bỏ công đến thăm Lưu Toán tương tự như lúc ông đến thăm Lương Ký để tỏ lòng ủng hộ của phe hoạn quan vì Lưu Toán sau này cũng có thể trở thành Hoàng Đế. Nhưng Lưu Toán không những không tham nhũng mà còn có phần hơi tự cao, coi hoạn quan chỉ là những tên người hầu cho mình nên không để ý đến Tào Đằng mà không nhận ra rằng hiện tại hoạn quan đã quyền lực như thế nào. Kết quả của cuộc gặp gỡ đó là Tào Đằng quyết định chuyển sang ủng hộ Lương Ký để lập Lưu Chí lên ngôi. Ngày hôm sau Lương Ký biết rằng ông đã có được sự ủng hộ của phe hoạn quan nên không tranh luận với Lý Cố nữa mà đưa quân đội vào và tuyên bố lập Lưu Chí làm Hoàng đế.

Đại thần Lý Cố không cam tâm nên viết thư cho văn võ bá quan đòi lập Lưu Toán lên ngôi nhưng việc này chỉ làm cho Lương Ký tức giận hơn và dùng danh nghĩa Hoàng thái hậu của em mình để đuổi Lý Cố về quê. Trong vòng 1 năm sau đó, bất cứ ai ủng hộ Lưu Toán đều bị Lương Ký xử trảm khiến cho Lưu Toán hối hận tự sát. Vậy là vào năm 146, Hán Hoàn Đế - Lưu Chí lên ngôi, trở thành Hoàng đế thứ 11 của triều Đông Hán. Tuy nhanh chóng lên làm Đế là vậy nhưng Lưu Chí biết rõ thực quyền đã rơi vào tay Lương gia khi Lương Ký tự phong mình làm Đại tướng quân và tuyên bố mình có quyền chỉ định các chức quan trong triều, nhanh chóng thay thế và đưa những người trong gia tộc cùng những người trung thành với mình lên làm quan. Trong vòng 13 năm tới, Lưu Chí không có thực quyền gì và phải trở thành bù nhìn cho Lương gia. Tất nhiên không phải ai cũng ủng hộ Lương Ký và sự lộng quyền của ông, có những người sẵn sàng đứng ra phản đối nhưng Lương Ký là người tàn bạo và ngang ngược, cai trị thông qua sự sợ hãi. Để biết Lương Ký là người như thế nào thì sau đây là 4 câu chuyện nổi tiếng nhất về ông :

1 ) Chuyện kể có một thương nhân rất giàu có tên là Sĩ Tôn Phấn, một ngày nọ Lương Ký muốn xin tiền của ông nhưng thay vì hỏi mượn trực tiếp, Lương Ký đòi bán cho ông 4 con ngựa với giá cao ngất ngưỡng 500.000 ngũ thù. Đây là một điều hoàn toàn không thể chấp nhận và mặc dù Sĩ Tôn Phấn biết rằng không nên chọc giận Lương Ký nhưng ông cũng không muốn mất nửa triệu nên xin Lương Ký giảm giá xuống còn 300.000. Việc này làm Lương Ký không vui, bèn loan tin thất thiệt ra ngoài rằng mẹ của Sĩ Tôn Phấn từng là nô tỳ của nhà họ Lương đã bỏ trốn, lại ăn trộm và mang theo rất nhiều châu ngọc, sau đó sai quan dưới quyền bắt giữ, tra tấn và chém đầu cả nhà Sĩ Tôn Phấn mà không cần xét xử. Lương Ký sau đó cho người đến tịch thu toàn bộ tài sản của người này, trị giá đến 170.000.000 ngũ thù. 

2 ) Ngoài giết thương nhân ra thì Lương Ký còn giết các quan lại chống đối nữa, một trong những vị quan này tên là Ngô Thọ, một nha huyện ở quê Lương Ký. Vì Lương Ký là người quyền lực nhất trong triều nên ở quê có những người thuộc Lương gia ỷ thế mà hống hách, không coi pháp luật ra gì. Ngô Thọ là một nha huyện công tâm nên tất cả những người phạm tội đều bị xử theo pháp luật, với những tội danh lớn như giết người thì Ngô Thọ cũng dựa trên pháp luật mà xử trảm. Điều này khiến Lương Ký không vui nên đòi chuyển Ngô Thọ sang giữ chức quan ở Kinh Châu. Tại thời điểm đó có một luật bất thành văn là tất cả những quan chức mới lên nhậm chức đều phải đến gặp mặt Lương Ký trước khi đến chỗ làm việc để tỏ lòng trung thành với người nắm giữ thực quyền. Lương Ký nhân cơ hội mở tiệc tiếp đãi thì cho tất cả các đồ ăn và rượu của Ngô Thọ bị tẩm độc, Ngô Thọ chưa bước ra khỏi cửa nhà Lương Ký thì đã chết rồi.

3 ) Nếu giết một nha huyện chưa đủ thì sau đây là câu chuyện về một người tên Hậu Mạnh Cương được chỉ thị làm Thái thú Lưu Đông. Thái thú là một chức quan rất cao thời đó và Hậu Mạnh Cương hơi đi quá xa một chút khi từ chối gặp Lương Ký trước khi tới chỗ làm việc. Lương Ký không vui, cho rằng đây là một hành động thách thức ông và thứ đợi Hậu Mạnh Cương ở Liêu Đông không phải là chức quan mới mà là một Thánh Chỉ nói phải chém đầu Hậu Mạnh Cương ngay tại chỗ. Thế là Lương Ký đòi chém đầu một Thái thú chỉ vì không tuân thủ luật bất thành văn của ông.

4 ) Những lúc Lương Ký rảnh rỗi không giết người, ông cũng có thú vui tao nhã khác là nuôi thú và rất thích nuôi thỏ, ông cho xây cả một khu vực nuôi thỏ tại gia. Một ngày nọ, có một thương gia ngoại quốc người Tây Thành đến nhà Lương Ký để làm việc, người này vô tình té ngã đè chết con thỏ ông nuôi. Mọi người cũng biết số phận của người này như thế nào rồi nhưng chưa hết, ông còn cho tìm và giết hơn 10 người thương gia vô tội khác chỉ vì những người này cũng đến từ Tây Thành.

Còn nhiều trường hợp khác được sử sách ghi lại về những hành động tàn bạo của Lương Ký. Cũng vì sự tàn bạo này mà Lưu Chí quyết không làm Lương Ký tức giận, giả vờ là một Hoàng đế bù nhìn nghe lời ông, biết rằng Lương Ký không có lý do gì mà hãm hại Hoàng đế như đã làm với Lưu Toản. Trong 4 năm đầu trên ngai vàng của mình, Hán Hoàn Đế sống dưới sự theo dõi chặt chẽ của Thái hậu Lương Nạp và các lính gác trong cung trung thành với Lương Ký, ông cũng phải giả vờ thân mật với Hoàng hậu Lương Nữ Oánh, người mà ông không yêu nhưng biết rằng phải làm bà vui để có thể giữ ngôi.

Mọi thứ thay đổi vào năm 150 khi nhiếp chính là Thái hậu Lương Nạp mất, trên lý thuyết quyền lực sẽ được trả về cho vị Hoàng đế 19 tuổi nhưng một lần nữa, Hoàng đế biết kiên nhẫn và cho phép Lương Ký tiếp tục quản lý triều đình. Dù sao thì cái chết của Thái hậu cũng cho phép Hoàng đế có chút không khí để thở khi Lưu Chí hoàn toàn bỏ mặc Hoàng hậu Lương Nữ Oánh và đưa rất nhiều phi tần vào cung. Việc này tất nhiên làm Hoàng hậu rất ghen tức và bà phải đảm bảo rằng bất kỳ phi tần nào có thai đều phải chết cả mẹ lẫn con.

Cuộc “ chiến tranh lạnh ” giữa Hoàng đế và Hoàng hậu tiếp diễn đến tận năm 159 khi Lương Nữ Oánh qua đời và phải lập Hoàng hậu mới, điều bất ngờ là cả Lưu Chí và Lương Ký đều ủng hộ một phi tần được sủng ái là Lương Mãnh Nữ. Thực tế Lương Mãnh Nữ lúc nhỏ không phải họ Lương mà là họ Đặng, do cha mất sớm, mẹ tái hôn nên bà phải chuyển từ họ Đặng sang họ Lương. Người cha dượng lại là em trai của Lương Ký nên Lương Ký cho rằng Lương Mãnh Nữ sẽ là người thích hợp để thay thế vị trí Hoàng hậu cho em gái mình. Tuy nhiên Lương Mãnh Nữ và mẹ lại phản đối Lương Ký vì sự chuyên quyền của ông ta, vì vậy Lương Ký cho sát thủ tới giết cả nhà Hoàng hậu mới, may mắn thay mẹ bà thoát được và chạy vào cung cầu cứu Hoàng đế. Chính sự kiện này là giọt nước làm tràn ly khiến Lưu Chí tức giận và chuẩn bị lên kế hoạch lật đổ Lương Ký.

Việc này nói dễ hơn làm bởi vì ngoại thích Lương Ký đã xây dựng được một hệ thống chính trị trung thành với mình rồi, cho dù có bất kỳ ai phản đối thì cũng sẽ quá sợ Lương Ký để mà lên tiếng. Chỉ có một phe mà Hoàng đế có thể tin tưởng được là các hoạn quan bởi vì mặc dù Lương Ký có đầy nội gián là các hoạn quan và lính gác khắp trong cung nhưng sau khi Thái hậu Lương Nạp qua đời, Hoàng đế biết được là có một số hoạn quan trung thành với mình và coi thường Lương Ký. Một trong số các hoạn quan này là một người tên Đường Hành, hoạn quan đầu tiên mà Hoàng đế cho biết kế hoạch. Một ngày nọ trong lúc đang đi vệ sinh, Lưu Chí hỏi Đường Hành rằng ông có biết hoạn quan nào trong cung cũng ghét Lương Ký nữa không, Đường Hành vốn thông minh, ngay lập tức hiểu ý Hoàng đế và đưa ra tên 4 hoạn quan có tư thù với Lương Ký.

Trong vòng vài ngày sau, Đường Hành đưa từng người một tới nhà vệ sinh nơi Hoàng đế vừa xả nỗi buồn vừa bàn kế hoạch cùng với Đường Hành và 4 hoạn quan khác là Đơn Siêu, Từ Hoàng, Cụ Viên, Tả Quán. Lương Ký cũng nghe phong phanh về một cuộc nổi loạn của hoạn quan và cho gọi 1 tướng quân trung thành với mình vào cung điều tra thử nhưng Hoàng đế và các hoạn quan nhanh chóng nhân cơ hội đảo ngược tình thế và bắt giữ vị tướng này vì tội xâm phạm cấm cung, lấy đi binh phù của tướng quân đó. Sau đó họ nhanh chóng cắt chức đội trưởng đội lính gác vì tội lơ là công việc để cho người khác vào cung, tịch thu luôn binh phù. Hoàng đế dùng cả 2 binh phù này tập hợp hơn một nghìn vũ lâm quân và nhanh chóng cùng 5 hoạn quan ập vào dinh thự của Lương Ký, ép Lương Ký tự sát.

Ngày hôm sau ở triều đình, tất cả các thành viên thuộc Lương gia và những người trung thành với Lương Ký đều bị xử trảm. Hoàn Đế bãi chức hơn 300 đại thần do Lương Ký bổ nhiệm khiến đa số các vị trí trong triều đình gần như trống rỗng. Toàn bộ tài sản của Lương Ký bị tịch thu trị giá hơn 3 tỉ ngũ thù khiến Hoàng đế phải hốt hoảng và hạ lệnh cho giảm nửa số thuế trên cả nước trong nhiều năm để làm an lòng nhân dân. Giờ mọi người có thể nghĩ sau khi diệt trừ được ngoại thích rồi thì Hán Hoàn Đế đã có thể an lòng nhưng những sự việc tiếp theo lại không thể nào lường trước được, một loạt các sự kiện chính trị trong 8 năm cầm quyền độc lập sắp tới của Lưu Chí sẽ khiến cả triều Đông Hán rơi vào khủng hoảng. 

Năm 159, Hán Hoàn Đế - Lưu Chí đánh bại được Lương gia đứng đầu bởi ngoại thích là Đại tướng quân Lương Ký nhờ có sự giúp đỡ của 5 hoạn quan. 5 người này đều được phong tước hầu và gọi là Ngũ hầu ( 五侯 ), nhưng do là hoạn quan không thể có con nên Hoàng đế mới cho người nhà của những người này được giữ các chức quan cao trong triều. Hoạn quan Đơn Siêu còn được phong chức tướng quân để quản lý đội quân của Lương Ký, tuy nhiên diệt Lương Ký trong một khoảng thời gian ngắn như vậy cũng để lại một số hậu quả.

Thứ nhất, việc khai trừ tất cả các đại thần từng thông đồng với Lương Ký khiến cho các chức quan trong triều gần như trống rỗng.

Thứ hai, những sĩ nhân trong triều từng bị Lương Ký kiềm hãm nghĩ rằng đã tới lúc để chứng tỏ bản thân nhưng Lưu Chí không tin tưởng sĩ nhân. Trong mắt ông, đây là những con người hèn nhát không dám đứng ra chống đối Lương Ký hoặc chính bản thân họ cũng thông đồng với nhà họ Lương. Ngoài ra do đa số các sĩ nhân đều đến từ những gia tộc giàu có mới có tiền cho con cháu đi học, Hoàn Đế sợ rằng một trong những gia tộc này sẽ nắm giữ quá nhiều quyền lực, vì vậy đa phần những chức quan lớn đều giao cho hoạn quan hoặc người nhà của họ.

Thứ ba, từ đây đã mở ra một cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa phe sĩ nhân và phe hoạn quan. Hoạn quan là một phe cánh hoàn toàn trái ngược với sĩ nhân bởi vì chỉ có những gia đình cực kỳ nghèo khổ mới có ý định bán con mình vào trong cung để làm hoạn quan nên chắc chắn một điều là họ không được đi học và không có khả năng quản lý đất nước. Với quyền lực mới của mình, họ cũng trở nên tham nhũng giống như Lương Ký và phe cánh của ông. Lưu Chí không phải là không biết điều này nên cũng đã đưa một số sĩ nhân lên nắm giữ các chức quan cao trong triều để bớt tham nhũng, ngoài ra còn hạ lệnh chém Tả Quán và lưu đày Cụ Viên trước khi cách chức luôn cả 3 hoạn quan còn lại trong Ngũ Hầu để làm gương. Nhưng sâu trong thâm tâm thì Hoàng đế tin tưởng các hoạn quan tham nhũng hơn là sĩ nhân bởi vì các hoạn quan không thể đe dọa đến ngôi vua được, thế là quyền lực rơi vào tay những hoạn quan tham nhũng gây ra nhiều khó khăn cho đời sống của bá tánh đến tận năm 166 khi cuộc tranh quyền giữa 2 phe lên đến đỉnh điểm trong một sự kiện gọi là “ Đảng Cố Chi Họa ” , 黨 锢 之 祸 , sự kiện này trong Tam Quốc Diễn Nghĩa được coi là khởi đầu của sự sụp đổ của nhà Hán nên chúng ta sẽ đi vào sâu hơn một chút.

Để hiểu rõ hơn sự kiện này thì chúng ta phải nói tới 2 nhân vật, thứ nhất là Lý Ưng được coi là lãnh đạo của phe sĩ nhân. Năm 165, ông giữ chức Tư lệ hiệu uý ở Lạc Dương, chịu trách nhiệm việc xét xử tội phạm, ngoài ra Lý Ưng còn từng là một vị tướng ở biên cương chống quân giặc người Khương, đứng đầu “ Bát Tuấn ” là một nhóm nho sinh có tiếng trong giới sĩ nhân. Có thể mọi người sẽ thắc mắc là tại sao trong thời đại này lại có nhiều người vừa là sĩ nhân vừa là tướng quân tới vậy, điều này một phần là do tầng lớp xã hội Trung Hoa thời bấy giờ khi mà gia tộc rất có ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống, gần như không có cách nào để leo lên bậc thang xã hội được và tất cả các chức quan chỉ có thể có được thông qua người thân trong triều đình.

Như vậy bạn phải đến từ gia tộc nổi tiếng hoặc quen biết người trong gia tộc nổi tiếng thì mới có thể làm quan được. Đó là lý do tại sao chúng ta có rất nhiều nhân vật nổi tiếng trong tam quốc là con cháu của những nhân vật nổi tiếng, ví như Tào Tháo là cháu của Tào Đằng, một hoạn quan nổi tiếng  ; Tôn Kiên có thể coi là hậu duệ của Tôn Tử người viết ra Binh Pháp. Tuy nhiên nếu bạn không thuộc dòng dõi quý tộc thì vẫn sẽ có cơ hội nhất định, chẳng hạn như Hà Tiến, một người bán thịt không được đi học, cha mẹ mất sớm, phải đi làm để nuôi 5 người em, cuối cùng vẫn lên được chức Đại tướng quân nhờ có em gái trở thành Hoàng hậu. 

Còn nếu như bạn thực sự có tài thì bạn có thể gây ấn tượng với những người thuộc gia tộc nổi tiếng để được nhận danh lợi, ví dụ như Lý Ưng được coi là sĩ nhân giỏi giang có tiếng và rất nhiều nho sĩ kéo đến để lấy lòng ông. Một người khi được mời đến nhà Lý Ưng sẽ được coi là “ Đăng Long Môn ” ( 登 龙 门 ) “ Đến Cửa Rồng ”, đó là cơ hội duy nhất khiến cho Lý Ưng ấn tượng và được ông giúp đỡ cho một chức quan, từ đó đi lên trong con đường sự nghiệp. Thực tế là Tuân Úc, một trong những mưu sĩ nổi tiếng của Tào Tháo, có một người chú là Tuân Sảng đã có cơ hội làm cho Lý Ưng ấn tượng, được mời đẩy xe ngựa cho ông để 2 người có thêm thời gian trò chuyện vì Lý Ưng đang bận phải đến nơi khác làm việc. Mặc dù đẩy xe ngựa được coi là công việc của người hầu nhưng Tuân Sảng lại vô cùng tự hào và đi đâu cũng khoe về chuyện đó trong suốt cuộc đời ông.

Chỉ qua những câu chuyện này chúng ta đã có thể thấy Lý Ưng là một người có sức ảnh hưởng như thế nào và trong giới nho sinh, ông được coi là tấm gương cho tất cả sĩ nhân học tập. Trái ngược với Lý Ưng và phe cánh của ông là Trương Nhượng, một trong những hoạn quan quyền lực nhất thời bấy giờ, ông sẽ còn nổi tiếng hơn về sau này trong thời Hán Linh Đế khi trở thành người đứng đầu Thập thường thị và được Lưu Hoành gọi là “ Quốc Phụ ”.

Cuộc đấu đá giữa Lý Ưng và Trương Nhượng bắt đầu vào năm 165 khi em trai của Trương Nhượng là Trương Sóc bị cáo buộc tội tham nhũng của dân và Lý Ưng là Tư lệ hiệu uý ở kinh thành chịu trách nhiệm xét xử tội phạm đã hạ lệnh bắt giữ Trương Sóc. Trương Sóc chạy trốn vào nhà anh mình là Trương Nhượng , đa phần các quan chức đều lo sợ không dám chọc tức Trương Nhượng nhưng Lý Ưng không quan tâm, vẫn đưa người vào tìm và bắt giữ Trương Sóc, xét xử rồi chém đầu. Cuộc bắt giữ Trương Sóc được giới sĩ nhân trong nước coi là bản tuyên chiến chính thức của Lý Ưng và nhanh chóng một phong trào chống hoạn quan nổ ra trên toàn cõi Trung Hoa. 

Vô số các quan chức đã ra lệnh bắt giữ cả gia đình hoạn quan, sự thù hận của các sĩ nhân đối với hoạn quan và gia đình họ, những người không xứng đáng nắm giữ quyền lực, đã lên đến đỉnh điểm khiến một số các nho sĩ đã đi quá giới hạn khi ra lệnh tra tấn và chém đầu toàn bộ thành viên trong gia đình hoạn quan kể cả trẻ em mà không cần xét xử. Họ cho rằng sự tham nhũng này là quá rõ ràng và sợ nếu vụ việc để lâu, tin tức đến được Lạc Dương thì các hoạn quan sẽ dùng quyền lực của mình để yêu cầu thả người. Với một phong trào diệt hoạn quan quá lớn như vậy, các hoạn quan ở kinh thành chỉ có thể xin Hoàng đế giúp đỡ và nói rằng những sĩ nhân này đang muốn tự mình điều khiển luật pháp.

Vậy là Hoàng đế nhân cơ hội mở tiệc ăn mừng năm mới 166, yêu cầu tất cả các quan chức trong nước thả tội phạm ra ngoài nhưng đến thời điểm này, phe hoạn quan không muốn lùi bước nữa và một số sĩ nhân nổi tiếng bao gồm Vương Doãn, người sau này giúp đỡ Lữ Bố lên kế hoạch giết Đổng Trác, mặc kệ Thánh chỉ của Hoàng đế đã hạ lệnh giết hết những thân nhân của hoạn quan, chỉ tha tội cho những phạm nhân thông thường và chúng ta đang nói tới cả một đại gia đình gồm hàng trăm người. Giới sĩ nhân viện cớ rằng mình đang diệt trừ tham nhũng cho nhân dân nhưng trong mắt Hoàng đế, những sĩ nhân này đang xem thường Thánh chỉ và tự mình quyết định pháp luật.

Cũng trong năm đó, một quan chức tên là Trương Thành, người rất thân với phe hoạn quan, có người con bị Lý Ưng xử trảm mặc dù Thánh chỉ đã xuống nên căm hận, tố cáo Lý Ưng kết bè đảng với các sĩ nhân khác đe doạ đến Hoàng đế. Trong suốt các triều đại Trung Hoa, việc kết bè đảng là điều cực kỳ cấm kỵ bởi họ coi việc quan chức đáng ra phải tận tâm phục vụ cho triều đình và nhân dân lại liên minh với nhau đe dọa đến ngôi vua là điều không thể chấp nhận. Hán Hoàn Đế - Lưu Chí vừa tức giận khi thấy Thánh chỉ của mình bị ngó lơ nên hoàn toàn ủng hộ tố cáo này và hạ lệnh bắt giữ hơn 200 quan chức có quan hệ mật thiết với Lý Ưng.

Cuộc bắt giữ này và phiên toà xét xử sau đó được gọi là “ Đảng Cố Chi Họa ” nhưng cũng chỉ dừng lại tại đấy khi cả 2 quan chức chịu trách nhiệm cho phiên xử đều ủng hộ Lý Ưng, cầu xin Hoàng đế tha tội cho ông. Hoàng đế cũng không thể nào chém đầu hơn 200 người này được bởi đây đều là những đại thần phục vụ lâu năm trong triều, đều đến từ những gia tộc quan trọng mà Hoàng đế cần để cai trị đất nước, ngoài ra còn có một số người không bị bắt nhưng cũng ra đầu thú bởi họ cảm thấy nhục nhã nếu như không được xếp là thân thích với Lý Ưng. Ngay cả các hoạn quan cũng không muốn vụ xét xử này diễn ra bởi có quá nhiều bằng chứng liên quan đến họ và người nhà tham nhũng nhiều đến mức nào nên không muốn Hoàng đế biết chuyện. Vậy là cuối cùng nhạc phụ của Hoàng đế là tướng quân Đậu Vũ, cha của Hoàng hậu Đậu Diệu, cũng xin được Hoàng đế tha cho phe Lý Ưng, tất cả những ai bị bắt sẽ được miễn tội chết nhưng bị cách chức và giam giữ tại gia đến cuối đời.

Sự kiện “ Đảng Cố Chi Họa ” không chỉ dừng lại ở đấy bởi vì vào năm sau, Hán Hoàn Đế - Lưu Chí băng hà và mặc dù ông có tận 5000 phi tần nhưng chỉ có 3 người con gái và không có con trai khiến cho cả triều đình một lần nữa phải tìm người nối ngôi, đương nhiên việc này phải được Hoàng thái hậu Đậu Diệu và cha là tướng quân Đậu Vũ quyết định. Như đã nói thì Đậu Vũ là người đã khuyên Hoàng đế tha cho các sĩ nhân trong “ Đảng Cố Chi Họa ” nên có lẽ cũng đoán được ông theo phe nào rồi, tất nhiên cũng sẽ không có lý do gì để không chọn Hoàng đế nhỏ tuổi một chút để Đậu Vũ lên làm nhiếp chính trong triều. Sau khi bàn bạc với nhau, họ Vũ quyết định đưa Lưu Hoành, một hầu tước 12 tuổi lên làm Hoàng đế, không chỉ vì nhỏ tuổi mà còn do cha Lưu Hoành mất sớm, ngoài người mẹ không có tiếng nói ra thì không ai có thể giúp đỡ Hoàng đế mới này cả. Đúng như Đậu Vũ dự tính, Hán Linh Đế - Lưu Hoành khi đăng cơ không có thực quyền gì, quyền lực một lần nữa lại rơi vào tay ngoại thích, Đậu Vũ sau đó tự phong mình làm Đại tướng quân, và Trần Phồn một nho sĩ đã gần 80 tuổi, người trước đây cũng từng xin Hoàng đế tha tội cho phe sĩ nhân trong vụ “ Đảng Cố Chi Họa ” làm Thái Phó.

Đến đây thì có lẽ chúng ta đã đoán được Đậu Vũ đang muốn làm gì khi liên tục phong chức cho nhiều sĩ nhân trong triều, nếu đoán được thì các hoạn quan cũng có thể đoán được, họ luôn theo dõi sát sao từng bước đi của Đậu Vũ. Vào tháng 5 năm 168, một hiện tượng nhật thực xuất hiện, Đậu Vũ và Trần Phồn lợi dụng hiện tượng này để tuyên truyền chống lại hoạn quan, nói các hoạn quan đang che lấp đi mặt trời đại diện cho Hoàng đế. Mặt khác Đậu Vũ và Trần Phồn bí mật thả tự do cho một số sĩ nhân bị hại trong vụ “ Đảng Cố Chi Họa ” bao gồm cả Lý Ưng, mặc kệ cho Thánh chỉ nói họ phải bị giam giữ tại gia. Đậu Vũ cùng các sĩ nhân này lập kế hoạch đưa quân ập vào cung, giết hết tất cả các hoạn quan.

Nhưng vì một số lý do, một phần là vì Thái hậu Đậu Diệp người đã quen sống trong cung được các hoạn quan chăm sóc, không đồng ý giết hết tất cả hoạn quan, ngay cả Đại tướng quân Đậu Vũ cũng không chắc chắn hành động của mình có được người dân ủng hộ hay không nên kế hoạch bị tạm hoãn để Đậu Vũ tìm được nhiều bằng chứng chống hoạn quan hơn. Vậy là kế hoạch bị hoãn lại từ 3 đến 4 tháng sau, cho đến khi một hoạn quan phát hiện vào đêm mùng 7 năm 168. Ngay lập tức 17 hoạn quyền lực nhất, đứng đầu là Vương Phủ và Tào Tiết, được triệu tập vào cung bàn bạc với nhau để bảo vệ mạng sống của mình. Không như Đậu Vũ, các hoạn quan lập tức hành động, hạ lệnh cho đóng cổng thành, cướp Hoàng đế làm con tin và lấy ngọc tỷ để triệu tập ngự lâm quân đến dinh thự của Đậu Vũ, lấy cớ là được lệnh Hoàng đế bắt giữ ông. Tuy nhiên Đậu Vũ cũng đã chuẩn bị quân đội và 2 bên đánh nhau ác liệt khắp cả kinh thành Lạc Dương. Trùng hợp thay là ngay lúc này tướng quân Trương Hoán cùng quân đội của mình sau nhiều năm trấn giữ biên cương, chống quân giặc người Khương và Hung Nô ở Lương Châu vừa trở về đến kinh thành Lạc Dương.

Mặc dù quân đội của hoạn quan và Đậu Vũ có thể có khoảng 1.000 người mỗi bên nhưng đội quân của Trương Hoán lại có đến hơn 10.000 quân tinh nhuệ, nhiều năm chiến đấu ở Lương Châu. Sự hỗ trợ của Trương Hoán sẽ là một yếu tố quyết định trong cuộc chiến này. Không may cho Đậu Vũ là Trương Hoán đã rời khỏi kinh thành suốt 5 năm, ông là Thái thú Vũ Uy và là người trấn giữ biên giới phía tây cho nhà Hán, không hề hay biết gì về sự kiện “ Đảng Cố Chi Họa ” và những sự kiện trước đó dẫn tới cuộc chiến ác liệt tại kinh thành này. Tất cả những gì ông biết là một bên theo phe của ngoại thích Đậu Vũ, còn phe kia là vị Hoàng đế nhỏ tuổi nên theo lẽ thường Trương Hoán sẽ giúp đỡ Hoàng đế.

Ngay lập tức toàn bộ quân lính của Đậu Vũ bỏ kiếm và đầu hàng bởi họ biết mình không có cơ hội để chiến thắng quân của Trương Hoán, Đại tướng quân Đậu Vũ ngay sau đó phải tự sát. Một lần nữa phe hoạn quan lại tiếp tục giành chiến thắng trước tập đoàn ngoại thích và sĩ nhân, ngay lập tức cho giam giữ tại gia Thái hậu Đậu Diệp, bà không lâu sau đó cũng qua đời. Thái phó Trần Phồn do giúp đỡ Đậu Vũ nên sau đó cũng bị xử trảm. Về phần Trương Hoán sau khi biết được chuyện mình đã làm thì hối hận cả đời, quyết không nhận tước hầu mà hoạn quan ban thưởng cho mình. Và giờ nếu mọi người nghĩ sự kiện “ Đảng Cố Chi Họa ” đến đây đã kết thúc thì sai rồi bởi mọi chuyện trên thực tế chỉ mới bắt đầu. Phe hoạn quan đã đại thắng trước phe sĩ nhân và họ sẽ không dễ dàng bỏ qua cho các sĩ nhân như vậy.

Với vị Hoàng đế nhỏ tuổi trong tay, hoạn quan lợi dụng một vụ án nhỏ cùng năm để tố cáo các sĩ nhân đang kết bè đảng với nhau, họ nói với vị Hoàng đế không biết gì này là các sĩ nhân đang cố làm hại đất nước và muốn giết những hoạn quan ngày ngày chỉ quan tâm giúp đỡ Hoàng đế. Thế là Hán Linh Đế - Lưu Hoành hạ lệnh bắt giữ gần hết tất cả các sĩ nhân trên toàn quốc. Đến cuối năm 169, hơn 700 sĩ nhân đã bị xử trảm hoặc bị trục xuất đến các vùng biên cương xa xôi. Đây có lẽ đã trở thành giai đoạn duy nhất mà hoạn quan kiểm soát toàn bộ đất nước trong lịch sử Trung Hoa. Khi Thái hậu Đậu Diệp và cha là tướng quân Đậu Vũ chọn lập Lưu Hoành lên làm Hoàng đế, có thể họ nghĩ cuộc sống sẽ rất dễ dàng như Thái hậu Lương Nạp và Đại tướng quân Lương Ký nhưng mà đời không như mơ, các hoạn quan sau khi có được quyền lực dưới thời Hoàng đế Lưu Chí đã rất quen thuộc với chuyện chính trị trong cung, họ còn có một lợi thế khác là luôn được ở cạnh Hoàng đế, chính Tào Tiết một hoạn quan đứng đầu trong triều là người đã đi rước Lưu Hoành vào cung đăng cơ làm Hoàng đế.

Lưu Hoành lúc đó cũng chỉ là một cậu bé vô tư vô nghĩ, không bao giờ tưởng tượng nổi mình sẽ trở thành người đứng đầu quốc gia, đương nhiên sẽ thích chơi đùa cùng các hoạn quan “ tận tình chăm sóc ” mình ở Tây Viên hơn là phải học cách điều hành đất nước Nho giáo cùng ông Thái phó Trần Phồn khó tính nào đó đã ngoài 80 tuổi. Với chiến thắng của hoạn quan trước phe sĩ nhân trong sự kiện “ Đảng Cố Chi Họa ” lần thứ 2 năm 169 càng làm cho việc giáo dục Hoàng đế mới ngày một tồi tệ hơn khi các hoạn quan chỉ giúp Lưu Hoành làm những trò nhảm nhí khắp cung điện như cho chó mặc đồ của quan chức, dẫn lừa vào cung cho Hoàng đế cưỡi ..... Khi Lưu Hoành lớn lên, ông cho mở rộng Tây Viên, xây dựng hàng nghìn dinh thự khác nhau và xây cả một hồ bơi rộng lớn của riêng mình. Tuy nhiên khác với Lưu Chí, tửu sắc không phải là thứ ông ham muốn, Hán Linh Đế - Lưu Hoành lại thích một thứ khác : tiền, và rất rất nhiều tiền.

Đấu Gạo thời Đông Hán

Trong phần này, chúng ta sẽ đi sâu vào quan chế, hệ thống chính trị, mức lương của các chức quan đứng đầu nhà Đông Hán, việc mua quan bán chức dưới thời của Hán Linh Đế - Lưu Hoành. Đầu tiên nhà Hán vẫn giữ nguyên hệ thống chính trị “ Tam công Cửu khanh ” ( 三 公 九 卿 ) từ thời nhà Tần. Tam công Cửu khanh có thể chia làm 2 phần, phần thứ nhất là “ Tam công ” ( 三 公 ) tức 3 cấp quan cao cấp nhất trong triều đình chỉ dưới quyền duy nhất của Hoàng đế. Có thể mọi người thấy quen thuộc bởi 2 anh em Viên Thiệu và Viên Thuật đến từ một gia tộc quyền thế gọi là “ Tứ thế Tam công ” ( 四 世 三 公 ) hay “ Bốn đời Tam công ”, nghĩa là 4 đời trước của nhà họ Viên đều có ít nhất 1 thành viên được phong lên hàng Tam công, một điều vô cùng ấn tượng. Dưới quyền Tam công là “ Cửu khanh ” ( 九 卿 ) tức 9 chức quan nhỏ hơn để hỗ trợ và giúp đỡ Tam công. Mặc dù tên của các chức quan trong Tam công Cửu khanh từ thời nhà Tần cho đến thời nhà Tấn có phần khác nhau nhưng vai trò của nó gần như không thay đổi. Vào cuối thời Đông Hán, tên của 3 chức Tam công này là “ Tư đồ ” ( 司 徒 ) , “ Tư không ” ( 司 空 ) và “ Thái uý ” ( 太 尉 ).

Giống như Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ quốc phòng thì Tư đồ ( Thủ tướng ) là chức quan quyền lực nhất được Tư không ( Phó Thủ tướng ) hỗ trợ, còn “ Thái uý ” ( Bộ trưởng Bộ quốc phòng ) thì chịu trách nhiệm quản lý quân đội. Nhưng ở thời kỳ này, các Hoàng đế bắt đầu tập trung quyền lực hơn khi nhiều quyết định lớn nhỏ trong triều đều phải qua Hoàng đế quyết định, ngoài ra còn tạo ra một chức quan mới có tên là “ Thái phó ” ( 太 傅 ) cao hơn cả Tam công, chịu trách nhiệm dạy học cho các Thái tử hoặc hỗ trợ Hoàng đế làm việc. Như mọi người có thể thấy, quyền lực của Tam công đã bị suy giảm đi rất nhiều vào thời Hán Linh Đế, ngay cả Thái uý tương đương với Bộ trưởng Bộ quốc phòng cũng phải dưới quyền của “ Đại tướng quân ” ( 大 將 軍 ) ngang với chức Tổng tham mưu trưởng Quân đội. 

Dưới quyền của Tam công là 9 chức quan tên Cửu khanh, vào thời kỳ này được chia ra làm 3 nhóm, mỗi nhóm sẽ hỗ trợ và được đặt dưới quyền mỗi chức quan trong Tam công. Mục đích của việc này là để làm giảm quyền lực của Tư đồ, chức cao nhất trong Tam công, trước đây Tư đồ thường nắm giữ quyền lực của 9 chức quan Cửu khanh dưới trướng nhưng sau này nhà Đông Hán cơ cấu lại hệ thống chính trị, chỉ cho Tư không quản 3 chức Cửu khanh ít quyền lực nhất là “ Đại hồng lư ” ( 大 鴻 臚 ) , “ Đình uý ” ( 廷 尉 ) và “ Thái bộc ” ( 太 僕 ). 

Đại hồng lư cũng giống như Bộ trưởng Bộ ngoại giao bây giờ, chuyên quản lý chuyện ngoại giao với các nước khác hoặc các bộ lạc trong nước, mới đầu nghe thì có vẻ quan trọng nhưng thực chất chỉ là công việc phụ bởi ngoại giao thời đó khá đơn giản do các “ quốc gia ” láng giềng quanh Trung Quốc cũng chỉ là những bộ tộc như Khương và Hung Nô, không chiến tranh với nhà Hán thì cũng là chư hầu. Đình uý chuyên trông coi việc xử án các trọng tội. Và cuối cùng là Thái bộc, lo việc nuôi và chăm sóc ngựa cho triều đình, khỏi nói cũng biết đây là chức quan ít quyền lực nhất trong Cửu khanh. Ngược lại Tư không trước đây là chức quan ít quyền lực nhất trong Tam công vì chỉ là “ Phó thủ tướng ” hỗ trợ Tư đồ làm việc, bây giờ lại được quản 3 chức quan cao nhất trong Cửu khanh là “ Thiếu phủ ” ( 少 府 ) , “ Đại tư nông ” ( 大 司 農 ) và “ Tông chính ” ( 宗 正 ) . 

Thiếu phủ là chức quan chuyên tính toán việc chi tiêu của Hoàng đế và những người trong cung. Tiếp theo là Đại tư nông, ngang với Bộ trưởng Bộ kinh tế, có thể nói đây là chức quyền lực nhất trong Cửu khanh bởi không chỉ quản lý nền kinh tế của cả nước mà Đại tư nông còn chịu trách nhiệm phân phối đất đai và sản phẩm nông nghiệp của cả Trung Hoa. Lý do Bộ kinh tế với Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn được hợp lại làm một là bởi vì tiền lương của nhà nước thời đó không chỉ trả bằng tiền mặt mà còn trả bằng gạo do lương thực cũng là đơn vị tiền tệ. Cuối cùng là Tông chính, như cái tên đã nói hết, chịu trách nhiệm ghi chép lại cây phả hệ của Hoàng tộc, năm sinh năm mất, bao gồm cả những họ hàng rất, rất xa của Hoàng đế.

Sau cùng là Thái uý quản 3 chức quan “ Vệ uý ” ( 衛 尉 ) , “ Quang lộc huân ” ( 光 祿 勳 ) và “ Thái thường ” ( 太 常 ). Vệ uý đứng đầu đội cận vệ của triều đình, chịu trách nhiệm bảo vệ Hoàng đế. Quang lộc huân chuyên quản lý cấm cung, đứng đầu đội cận vệ trong cung, nghe có vẻ giống với Vệ uý nhưng khác biệt là Vệ uý quản cận vệ của triều đình, còn Quang lộc huân quản lý đội cận vệ riêng của Hoàng đế. Cuối cùng là Thái thường chuyên phụ việc trông coi những lễ hội truyền thống trong kinh thành. Dưới quyền của Cửu khanh là hàng trăm các chức quan khác phụ việc quản lý đất nước rộng lớn này, nhưng chúng ta hãy nói đến việc tiếp theo là mức lương của những chức quan này như thế nào.

Nói chung có 6 cấp bậc lương bổng khác nhau cho các quan chức cuối thời nhà Hán, bao gồm “ Vạn Đạn ” ( 万石 ) hay  ”10.000 Đạn ” ; “ Trung Nhị Thiên Đạn ” ( 中 二 千 石 ) hay “ Trung 2.000 Đạn ” ; “ Chân Nhị Thiên Đạn ” ( 真 二 千 石 ) hay “ Chân 2.000 Đạn ” ; “ Nhị Thiên Đạn ” ( 二 千 石 ) hay “ 2.000 Đạn ” ; “ Tỉ Nhị Thiên Đạn ” ( 比 二 千 石 ) hay “ Tỉ 2.000 Đạn ” ; sau cùng là 100 cho đến 1000 Đạn. Nghe thì có vẻ hơi khó hiểu nên trước tiên phải biết “ Đạn ” là gì đã. Từ “ 石 ” ở đây thời kỳ này có nghĩa là “ thạch ”, tức đá, nhưng khi dùng làm đơn vị đo lường thì phải đọc là “ Đạn ” và 1 “ Đạn ” tương đương với 10 “ Đẩu ” ( 斗 ) hay xô. “ Đẩu ” là đơn vị đo thể tích gạo bằng 1 cái xô, khoảng 2 lít khối, tức 1 “ Đạn ” tương đương với 10 xô gạo, như vậy vị chi 1 “ Đạn ” bằng khoảng chừng 30 kg gạo. Theo các sử gia thì giá thị trường của 1 “ Đạn ” thời đó là khoảng 200 ngũ thù ( đơn vị tiền tệ thời đó ), tuy nhiên giá thị trường cũng sẽ thay đổi vào từng mùa màng thu hoạch trong năm nhưng con số này có lẽ cũng đã đủ sử dụng rồi.

Một con số khác đáng lưu ý nữa là thu nhập bình quân của tầng lớp trung lưu thời đó là khoảng 10.000 ngũ thù / 1 năm hay khoảng 20 “ Đạn ” nếu tính theo gạo. Giờ quay lại với cấp bậc lương bổng của nhà Đông Hán sau khi chúng ta đã biết “ Đạn ” là gì rồi. Không như cái tên, “ Vạn Đạn ” không phải là có mức lương 10.000 “ Đạn ” mà là 350 “ Đạn ” mỗi tháng, tức là 4.200 “ Đạn ” mỗi năm và chỉ những người thuộc hàng Tam công trở lên mới có mức lương này, tất nhiên bạn vẫn có thể nhận nhiều lương hơn tuỳ vào việc Hoàng đế có thích bạn hay không và còn tuỳ thuộc vào quyền lực của bạn nữa, ví dụ khi Đổng Trác tiến vào kinh thành Lạc Dương, ông tự phong mình là Tướng quốc với mức lương “ Tứ Vạn Đạn ” ( 四万石 ), nghĩa là gấp 4 lần “ Vạn Đạn ”. Phía dưới là mức “ Trung Nhị Thiên Đạn ”, lãnh 180 “ Đạn ” mỗi tháng hay 2.160 “ Đạn ” mỗi năm, đây là mức lương của Cửu khanh. Dưới nữa là “ Chân Nhị Thiên Đạn ” với 150 “ Đạn ” mỗi tháng hay 1.800 “ Đạn ” mỗi năm. Tiếp theo là “ Nhị Thiên Đạn ” với 120 “ Đạn ” mỗi tháng hay 1.440 “ Đạn ” mỗi năm. Sau nữa là “ Tỉ Nhị Thiên Đạn ” với 100 “ Đạn ” mỗi tháng hay 1.200 “ Đạn ” mỗi năm. Sau cùng là những chức quan nhỏ, trả lương từ 100 đến 1.000 “ Đạn ” mỗi năm. 

Mục đích của bài viết này không phải nói về hệ thống chính trị hay mức lương của nhà Hán mà là sử dụng những con số này làm bối cảnh để bàn về việc mua quan bán chức của Lưu Hoành khi mà dưới thời ông, toàn bộ các chức quan trong triều bao gồm cả Tam công đều được đem ra bán, bắt đầu từ năm 178. Và Hán Linh Đế - Lưu Hoành đã ghi rất rõ luật mua bán quan chức này như thế nào.

1/ Thứ nhất, là dựa trên mức lương, ví dụ nếu một chức quan có mức lương 400 ngũ thù / 1 năm thì giá của chức quan đó sẽ là 4 triệu ngũ thù, trả bằng tiền mặt, nói cách khác là gấp 10.000 lần mức lương của chức quan đó. Như chúng ta đã biết 1 “ Đạn ” có giá thị trường là 200 ngũ thù, như vậy số tiền dùng để mua các chức quan này sẽ gấp 50 lần so với mức lương.

2/ Thứ hai, nếu bạn muốn mua một chức quan ở địa phương, nghĩa là làm việc cách xa Lạc Dương thì giá bán sẽ tăng gấp đôi bởi bạn có nhiều quyền lực hơn và tự do hơn so với làm việc ở kinh thành nơi có nhiều quan chức cấp cao hơn.

3/ Thứ ba, nếu bạn đến từ một gia tộc có tiếng, bạn sẽ được giảm giá 50 %.

4/ Thứ tư, nếu bạn không có tiền để mua chức quan thì không sao, Lưu Hoành sẽ cho bạn trả góp, bạn có thể nhận chức trước rồi trả giá gấp đôi trong vòng 2 năm sau.

5/ Thứ năm, nếu bạn đã có sẵn một chức quan rồi và được thăng chức với mức lương cao hơn thì bạn cũng phải trả 25 % so với mức lương mới.

6/ Thứ sáu, đối với những chức quan nhiều người muốn, mức cầu cao, đích thân Hoàng đế sẽ mở một cuộc bán đấu giá ( đấu thầu mua chức ) để thu về nhiều tiền nhất có thể. Ví dụ, cha của Tào Tháo là Tào Tung đã đứng ra mua chức Thái uý với giá 100 triệu gần gấp 3 lần giá gốc chỉ để lấy lòng Hoàng đế mặc dù chính ông không muốn làm công việc này và từ chức sau 5 tháng để giúp Hoàng đế bán tiếp chức quan này để thu về nhiều tiền hơn.

Hệ thống mua quan bán chức mà Lưu Hoành tạo ra đã hợp pháp hoá việc tham nhũng trên toàn quốc khi mà những người làm quan không quan tâm tới việc phục vụ nhân dân nữa mà chỉ lo bóc lột, tham nhũng để lấy lại tiền vốn lẫn lời mà mình đã mua từ Hoàng đế. Tất cả những quan chức công minh muốn giúp nhân dân đều bị loại bỏ hết bởi không ai không tham nhũng mà có thể đủ tiền để chi trả với giá bán quan như vậy được. Tất nhiên những người chịu thiệt hại nặng nề nhất không phải là những quan chức mất quyền vì không tham nhũng mà là những thường dân vô tội giờ đây bị bóc lột từ mọi phía đến mức họ đã quyết hy sinh cả tính mạng tham gia Khởi nghĩa Khăn Vàng năm 184, điều tốt nhất mà họ có thể làm. Nhưng trước khi nói về Khởi nghĩa Khăn Vàng, chúng ta phải nói về Lương Châu và lý do tại sao một cuộc khởi nghĩa khác lại diễn ra vào cùng thời gian nữa.

Khu vực này không có nhiều người Hán sinh sống và chưa bao giờ được công nhận là 1 “ châu ” của nhà Hán, đúng hơn chỉ là một tập hợp của 50 bộ tộc nhỏ làm chư hầu cho nhà Hán. Khi quân Hán đánh bại được Hung Nô, nhiều người Hán đã đến đây sinh sống đẩy tộc Khương ra khỏi các vùng đất màu mỡ dễ trồng trọt canh tác, buộc tộc Khương trở thành dân du mục, một số còn xin phục vụ quân đội nhà Hán làm lính đánh thuê chống Hung Nô. Nhờ vậy người Khương một lần nữa được trở lại sống chung với người Hán.

Nhưng 2 dân tộc này không phải lúc nào cũng hoà thuận và đã có hơn 5 cuộc khởi nghĩa tại Lương Châu diễn ra trong thời nhà Hán với cuộc khởi nghĩa cuối cùng sẽ là cuộc khởi nghĩa chúng ta bàn đến sau này, lý do thường là vì một số quan chức chịu trách nhiệm quản lý tộc Khương “ Hộ Khương hiệu uý ” ( 护 羌 校 尉 ) làm sai chuyện gì đó hoặc trở nên tham nhũng. Tộc Khương có phần hơi đặc biệt ở chỗ là họ không quan tâm tới sắc tộc mà chỉ lựa chọn lãnh đạo dựa trên năng lực, chẳng hạn như Hàn Toại là một người Hán. Nhưng cũng vì vậy mà đa phần các cuộc khởi nghĩa đều thất bại do người chỉ huy các cuộc khởi nghĩa đều quay sang đánh nhau tranh giành quyền lực. 

Trước khi tìm hiểu về cuộc Khởi nghĩa Lương Châu cuối cùng, chúng ta phải bàn đến chính sách của nhà Hán tại Lương Châu trong thời 3 vị Hộ Khương hiệu uý thành công nhất là Hoàng Phủ Quy, Trương Hoán và Đoàn Quýnh. 3 người này còn được gọi là “ Lương Châu Tam Minh ” ( 涼 州 三 明 ) do trong tên tự đều có chữ “ Minh ” : Uy Minh ( 威 明 ; Hoàng Phủ Quy ) , Nhiên Minh ( 然 明 ; Trương Hoán ) ; Kỷ Minh ( 纪 明 ; Đoàn Quýnh ) . Trong phần trước chúng ta đã nói sơ qua về Trương Hoán khi ông trở về kinh thành và vô tình giúp hoạn quan giết chết Đậu Vũ. Hoàng Phủ Quy là cậu của Hoàng Phủ Tung, một tướng quân có công diệt giặc Khăn Vàng. Còn Đoàn Quýnh là một trong những tướng quân thành công nhất thời Đông Hán nhưng thường không được nhắc tới do cấu kết với hoạn quan.

Tuy nhiên 3 người này lại có cách xử lý dân du mục và tham nhũng tại Lương Châu vô cùng khác nhau, bắt đầu với Trương Hoán. Trương Hoán sinh năm 104, cha ông là Thái thú Hán Dương, thủ phủ Lương Châu, nhờ đó ông được giáo dục từ bé và trở thành một nho sinh trong khi còn rất trẻ. Năm 155 ở tuổi 51, ông được phong làm chỉ huy trấn giữ thành An Định tại Lương Châu, dưới trướng có 200 người. Không lâu sau khi nhậm chức, 7.000 quân Hung Nô ở phía bắc tiến vào cướp bóc quấy phá Lương Châu khiến cho nhiều người Khương bản địa cũng đi theo Hung Nô cướp phá. Ngay lập tức Trương Hoán ra lệnh phản công, mặc dù trong thành chỉ có 200 quân nhưng ông đã đoán đúng rằng người Khương không có ý định khởi nghĩa mà chỉ tranh thủ theo quân Hung Nô cướp phá. Khi thấy quân của Trương Hoán tới, quân Khương nhanh chóng đầu hàng sau vài trận đánh và ông tuyển những người Khương này vào quân đội của mình, dùng họ để đẩy lui tộc Hung Nô.

Nhờ có chiến thắng này, triều đình quyết định thăng ông làm đại sứ cho các chư hầu phía nam tộc Hung Nô nhằm làm nội gián thăm dò các hoạt động của tộc này. Cuối năm đó, tộc Hung Nô lại liên minh với các bộ lạc Tiên Ti và Ô Hoàn tiến hành cướp phá U Châu phía đông bắc Trung Hoa. Trương Hoán một lần nữa áp dụng chiến thuật “ chia để trị ”, dùng tiền mua chuộc tộc Ô Hoàn khiến họ đổi theo phe nhà Hán, sau đó mở các chiến dịch nhỏ nhằm tiêu diệt các lãnh đạo chỉ huy quân Hung Nô, buộc tộc Hung Nô không còn ai lãnh đạo phải đầu quân cho nhà Hán. Kế tiếp sử dụng quân đội nhà Hán, Hung Nô và Ô Hoàn để tiêu diệt tộc Tiên Ti ngoan cố hơn, nhờ vậy đem lại hoà bình tạm thời cho biên giới phía bắc nhà Hán.

Năm 159, khi Hán Hoàn Đế - Lưu Chí đã diệt được Lương gia như đã nói, Trương Hoán lại bị cách chức vì Hoàng đế coi ông là quan chức được Lương Ký bổ nhiệm. Ông về vườn trong vòng 5 năm, trong khoảng thời gian đó Hoàng Phủ Quy ( cũng nằm trong Tam Minh ) viết tấu sớ xin Hoàng đế tha cho Trương Hoán đến 7 lần trước khi triều đình quyết định phục chức cho ông, phong ông làm Thái thú Vũ Uy ( như đã nói Hoàng Phủ Quy là cậu của Hoàng Phủ Tung, người sau này cũng xin Hoàng đế miễn tội cho Lư Thực khi bị hoạn quan vu oan, cái nhà này có truyền thống xin tha tội cho mọi người nhỉ ). Trở lại với Trương Hoán khi ông nhậm chức thái thú Vũ Uy, vùng đất ở biên cương phía tây bắc nhà Hán, ông hạ lệnh cho cắt giảm tô thuế, phân chia đồng đều các vùng đất chưa được khai hoang, ban hành luật nghiêm cấm bóc lột lao động với các dân tộc thiểu số. Ngoài ra ông còn bãi bỏ hủ tục mê tín lạc hậu ở những bộ lạc, thời này họ vẫn giữ một số hủ tục như giết tất cả những trẻ em sinh ra vào cùng tháng với bố hoặc mẹ. Nhờ những chính sách này, Trương Hoán đã phần nào làm giảm sự tranh chấp giữa các dân tộc thiểu số và người Hán.

Danh tiếng vang dội, ông lại được thăng chức, chịu trách nhiệm trấn giữ toàn bộ vùng biên cương phía bắc Trung Hoa gồm U Châu, Tịnh Châu, Lương Châu chống lại các tộc du mục. Nhờ tài năng của mình, những vùng này sau đó không còn có dấu hiệu nổi loạn chỉ trừ Lương Châu. Năm 166, triều đình quyết định thăng chức cho ông làm Đại tư nông, một trong 9 chức quan thuộc Cửu khanh, vừa nghe tin ông về Lạc Dương nhậm chức, tộc Hung Nô lại liên minh với tộc Tiên Ti, Ô Hoàn và Khương tiếp tục làm loạn, cướp phá khắp 3 châu U, Lương, Tịnh. Nghe được tin đó, Trương Hoán liền từ chức Đại tư nông, xin triều đình cho Hoàng Phủ Quy làm thay mình và gấp rút quay lại phía bắc, tộc Hung Nô vừa thấy Trương Hoán đã lập tức đầu hàng. Ông nhanh chóng dẹp yên được các bộ lạc này chỉ trừ Lương Châu là vẫn còn 5.000 quân du mục người Khương nổi loạn.

Trương Hoán quyết định cho Đổng Trác lúc này là tướng dưới trướng ông, là người quen thuộc với Lương Châu nhất, đưa quân sang dẹp loạn. Sau một năm thì dẹp yên được Lương Châu, Trương Hoán trở về kinh thành nhậm chức và đó cũng là lúc Đại tướng quân Đậu Vũ và hoạn quan đang chém giết nhau ở Lạc Dương. Ông không biết lại giúp đỡ hoạn quan bởi họ có Hoàng đế trong tay, Trương Hoán nghĩ mình đang giúp Hoàng đế vì ông đâu biết gì về những việc diễn ra ở triều đình. Ông hối hận, làm Đại tư nông được 1 năm thì từ quan do mâu thuẫn với hoạn quan và trở về Lương Châu làm thầy đồ dạy học 12 năm trước khi qua đời ở tuổi 78.

Giờ chúng ta nói đến Hoàng Phủ Quy, người xin Hoàng đế tha tội cho Trương Hoán. Hoàng Phủ Quy cũng sinh năm 104 ở An Định quận, thuộc Lương Châu, khá gần nơi sinh của Trương Hoán. Ông nội và cha ông đều là những tướng quân chống tộc Hung Nô giúp nhà Hán, nhờ sinh ra trong một gia đình có truyền thống quân sự như vậy nên Hoàng Phủ Quy từ nhỏ đã được học Binh pháp và am hiểu khá nhiều điều trong binh gia. Nhưng không may là ông lại không có cơ hội chứng tỏ bản thân hồi còn trẻ vì không được phong chức quan nào cả. Năm 141, tộc Tây Khương mở một cuộc tấn công lớn vào thành An Định và bao vây thành trong nhiều tháng. Để đáp trả, triều đình nhà Hán đưa một đội quân khổng lồ khoảng 100.000 người để giải vây bởi nếu An Định rơi vào tay quân giặc thì rất có thể mục tiêu tiếp theo sẽ là Trường An. Trong thành An Định, Hoàng Phủ Quy lúc này chỉ là 1 thường dân hằng ngày leo lên cổng thành để xem xét chiến thuật của 2 phe Tây Lương và triều đình, sau đó viết một báo cáo rất dài, nói rằng nhà Hán đang sử dụng sai chiến thuật chống lại quân Tây Lương. Đúng như dự đoán, sau vài tháng quân nhà Hán đại bại, tất cả các tướng quân đều bị giết và thành An Định tiếp tục bị vây.

Thái thú An Định lúc đó thấy Hoàng Phủ Quy hiểu chuyện bởi tất cả những gì trong báo cáo đều đúng nên cho ông làm chỉ huy 800 quân lính còn lại trong thành. Hoàng Phủ Quy dùng 800 lính này xông ra, sau một trận đánh ác liệt đã có thể giải vây cho thành. Tới đây có thể rằng Hoàng Phủ Quy sẽ được nhận 1 chức quan to nhưng thay vì nhận thưởng, ông nhân cơ hội viết một bản báo cáo dài hơn, nói rằng nhà Hán đang sử dụng sai chiến lược quân sự và dân sự tại Lương Châu. Đội quân Hán ở đây quá lớn, quá cồng kềnh và quá bị động, không thể đối mặt với chiến thuật du kích của các bộ lạc nhỏ được. Vì quá lớn nên hậu cần cũng không thể đủ. Mỗi lần thiếu hậu cần như vậy, quân lính lại tiến hành cướp bóc lương thực từ các bộ lạc ôn hoà hơn khiến cho nhiều bộ lạc nổi loạn. Càng tồi tệ hơn, các quan chức ở đây lại vô cùng tham nhũng khiến nhiều người dân Hán cũng bị bóc lột nặng nề dẫn đến việc họ bỏ làm ruộng và trở thành các tướng cướp. Ông xin triều đình hãy cho ông nắm giữ 5.000 quân đóng ở phía tây để chống quân du kích đồng thời đưa ra một danh sách các quan lại tham nhũng cần được loại bỏ.

Tất nhiên là triều đình không quan tâm bởi lúc này Hoàng Phủ Quy chỉ là một thường dân và có rất nhiều quan lại trong triều nhận hối lộ từ các tham quan này. Năm 146, Lương Ký trở thành nhiếp chính trong triều. Như đã nói, Hoàng Phủ Quy lại tiếp tục viết nhiều báo cáo hơn nữa, nói Lương Ký là 1 một viên quan lộng quyền và tham nhũng khiến ông mất luôn chức quan nhỏ mà ông vừa mới được nhận. Hoàng Phủ Quy rất thẳng thắn, ông tự cho là mình làm điều đúng và về quê làm thầy đồ dạy học suốt 14 năm. Sau khi Lương Ký bị Lưu Chí giết vào năm 169, Hoàng Phủ Quy một lần nữa lại được mời làm quan, ông được chuyển sang phía đông để dẹp yên một cuộc nổi loạn ở Thái Sơn. Sau khi thành công dẹp yên quân nổi loạn, ông may mắn có được cơ hội thăng tiến khi Hộ Khương hiệu uý lúc đó là Đoàn Quýnh ( cũng thuộc Tam Minh ) tạm thời bị cắt chức do xích mích với thái thú địa phương. Ông được thế chỗ cho Đoàn Quýnh và quay trở lại Lương Châu, khi đến đây ông quyết định thương lượng hoà bình với nhiều bộ lạc địa phương, đẩy mạnh các chính sách cải cách và chống tham nhũng khắp vùng Lương Châu.

Triều đình thấy ông có tài nên phong cho ông trấn thủ toàn bộ vùng biên giới phía bắc, tuy nhiên ông biết mình đã gây thù chuốc oán với nhiều tham quan và hoạn quan nên xin triều đình cho Trương Hoán lên làm thay ông, còn mình chỉ làm tướng dưới quyền Trương Hoán. Đây cũng là lý do Trương Hoán có cơ hội để dẹp yên các bộ tộc Hung Nô, Tiên Ti và Ô Hoàn. Sau khi Trương Hoán không thể về kinh thành nhậm chức Đại tư nông thì đã xin triều đình để Hoàng Phủ Quy thay thế mình. Trong 8 năm sau đó, ông cũng chỉ giữ một số chức quan nội chính trong triều, Hoàng đế nhiều lần muốn phong ông làm Hộ Khương hiệu uý trở lại nhưng Hoàng Phủ Quy lúc đó đã quá lớn tuổi, chỉ giữ chức này cho đến năm 174 khi qua đời ở tuổi 71. Mặc dù Hoàng Phủ Quy không tham gia bất kỳ trận đánh lớn nào nhưng cũng có thể thấy ông là người chỉ huy rất giỏi.

Và cái ông giỏi hơn cả là tìm hiểu rõ nguyên nhân xảy ra các cuộc nổi loạn ở Lương Châu, ông đã đúng khi cho rằng những bộ lạc này thực chất không có ý định chống lại nhà Hán, nếu triều đình ít tham nhũng và đưa ra những chính sách tốt hơn thì các bộ tộc này và dân Hán có thể chung sống hoà thuận với nhau. Vậy khi bất kể có một cuộc nổi loạn nào xảy ra, Hoàng Phủ Quy luôn chọn con đường thương lượng trước hết. Chính sách này không giống như Trương Hoán, người rất thân với Hoàng Phủ Quy, ông trước tiên dùng việc thương lượng để chia rẽ các bộ tộc, sau đó lợi dụng việc này để cho họ đánh lẫn nhau. Không như cả 2 người, Đoàn Quýnh là diều hâu trong Tam Minh Lương Châu, ông tin rằng chỉ có 1 cách duy nhất để giải quyết vấn đề dân du mục là thông qua các chiến dịch đốt sạch, cướp sạch, giết sạch, gần như là diệt chủng.

Đoàn Quýnh sinh ra ở Vũ Uy, ông nội và cha ông cũng đều là tướng quân chống giặc Hung Nô của nhà Hán, nhờ vậy Đoàn Quýnh cũng được giáo dục tốt từ bé. Khoảng năm 155, ông được triều đình cho trấn giữ một nước chư hầu ở Liêu Đông gần khu vực Triều Tiên hiện nay để chống tộc Tiên Ti. Ông thành công bằng cách làm giả ngọc tỷ khiến quân Tiên Ti bị mắc bẫy. Tuy chiến thắng nhưng tội làm giả ngọc tỷ là tội nặng, ông bị giáng làm lính thường phải chiến đấu ở biên cương. Ông là người chỉ huy giỏi nên được nhiều lần thăng chức cho đến năm 159 khi ông được bổ nhiệm làm Hộ Khương hiệu uý. Đây là lúc ông sử dụng chiến thuật cướp giết của mình để tiêu diệt tất cả các bộ lạc dám chống đối nhà Hán. Chẳng hạn trong một chiến dịch vào năm 160, Đoàn Quýnh đánh bại được 1 bộ lạc du mục, sau đó ông xua quân đuổi theo bộ tộc này 40 ngày liên tục giữa mùa đông lạnh lẽo, đội quân của ông dùng tuyết làm nước uống, dùng xác chết của quân địch làm lương thực trước khi đuổi kịp và giết hết 1.600 người của bộ lạc bao gồm cả phụ nữ và trẻ em rồi thiêu sống luôn 90 người đầu hàng quân Hán.

Năm 161 ông bị giáng chức do có xích mích với 1 thái thú ở Lương Châu nhưng lại được phong Hộ Khương hiệu uý trở lại vào năm 163 khi tộc Khương một lần nữa cướp phá Lương Châu. Lúc trở lại làm việc, ông nhanh chóng lên kế hoạch mở một chiến dịch phản công cực lớn khiến tên tuổi ông trở nên vang dội. Mùa xuân năm 165, Đoàn Quýnh mở chiến dịch tấn công vào toàn bộ các bộ lạc Đông Khương, trong vòng 6 tháng liên tục ông đã giết chết 23.000 người của tộc Đông Khương, nô dịch hơn 10.000 người khác và cướp được hơn cả triệu loài gia súc. Ông liên tục mở nhiều chiến dịch tương tự vào những năm sau cho đến năm 169 khi ông mở chiến dịch cuối cùng đuổi toàn bộ tộc Đông Khương ra khỏi Lương Châu, ông đánh hơn 180 trận, giết hơn 38.600 quân địch, cướp được hơn 427.500 gia súc và đến khi chiến dịch kết thúc thì chỉ có 4.000 người Đông Khương là còn sống bởi vì Đoàn Quýnh đã gần như tận diệt tất cả dân Đông Khương.

Mặc dù chiến dịch này khiến nhà Hán phải chi hơn 4,4 tỷ ngũ thù nhưng Đoàn Quýnh chỉ mất hơn 400 quân và được coi là tướng quân thành công nhất nhà Đông Hán. Một năm sau, ông trở về kinh thành và được coi là một anh hùng dân tộc, sau đó ông liên minh với phe hoạn quan và có cuộc sống sa hoa đến tận năm 179 khi phe hoạn quan bảo kê cho ông bị mất quyền, có nhiều đại thần trong triều báo cáo về việc tham nhũng của Đoàn Quýnh cho Hoàng đế khiến ông bị tống vào ngục và bị đầu độc chết. Chiến dịch năm 169 của Đoàn Quýnh giúp bình định được Lương Châu trong nhiều năm cho đến khi một cuộc khởi nghĩa lớn khác nổ ra ngay giữa lúc loạn Khăn Vàng khiến nhà Hán không dễ dàng giải quyết được nữa.

Chúng ta sẽ nói đến 3 anh em Trương Giác, Trương Bảo, Trương Lương nhưng do có rất ít tài liệu lịch sử ghi chép về cuộc đời của 3 người này trước cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng nên chúng ta sẽ chỉ nói về việc làm sao họ xây dựng được lực lượng cho quân khởi nghĩa bởi họ phải mất cả một thập kỷ để chuẩn bị lật đổ nhà Hán. Dù không có tài liệu lịch sử nào ghi chép về nghề nghiệp của 3 anh em này trước cuộc khởi nghĩa cũng như năm sinh của họ nhưng chúng ta biết rằng họ sinh sống ở quận Cự Lộc. Nếu ai quen thuộc với tiểu thuyết “ Tam quốc diễn nghĩa ” của La Quán Trung thì có thể đã đọc qua ngay trong hồi 1 rằng Trương Giác là 1 nho sinh nhưng do thi trượt tú tài nên cùng 2 anh em chuyển sang làm thầy thuốc. Một ngày trong lúc trên núi hái thuốc, ông gặp được 1 cụ già đưa cho cuốn “ Thái bình yêu thuật ”, hoá thành gió rồi biến mất. Cuốn tiểu thuyết cho rằng cụ già này là Nam Hoa lão tiên do Trang Tử hoá thân thành, Trang Tử là một triết gia nổi tiếng của Đạo giáo thời Chiến Quốc.

Tất nhiên những điều này chỉ là giả tưởng, kỳ thi tú tài để tuyển chọn quan chức đầu tiên là vào thời nhà Tuỳ gần 1.000 năm sau. Trương Giác không thể là một nho sinh và thi trượt tú tài được, ông có thể chỉ là 1 nông dân bình thường. Ông đúng là có nhận 1 cuốn sách về Đạo giáo nhưng chắc chắn không nhận nó ở trên núi từ 1 cụ già hoá thành gió biến mất. Cuốn sách mà Trương Giác nhận được là “ Thái bình kinh ” của Vu Cát, một đạo sĩ cũng sống vào thời kỳ này ở Đông Hải. Một điều thú vị là cuốn “ Thái bình kinh ” từng được dâng lên cho Hán Hoàn Đế - Lưu Chí mà chúng ta đã nói đến, Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nhà Đông Hán ủng hộ Đạo giáo và tôn vinh các vị thần Đạo giáo trong triều. Ông làm vậy là để hạ sinh được con trai bởi 3 người con của ông đều là gái, việc này có tính mê tín hơn là triết học, vì vậy khi có người dâng cho cuốn “ Thái bình kinh ” thì Lưu Chí thấy có nhiều ý tưởng cải cách Đạo giáo trong đó nên tức giận, chém đầu luôn người đó. Mọi người phải hiểu là trong thời kỳ này nhà Hán đã không còn ủng hộ Đạo giáo nữa và các quan chức trong triều chỉ độc tôn mỗi Nho giáo. Nhưng vào đầu thời nhà Tây Hán, tức khoảng 300 năm trước, triều đình vẫn coi Đạo giáo là quốc giáo và do đó nhiều người truyền Đạo như Vu Cát và Trương Giác cho rằng nhà Tây Hán thành công là nhờ tôn giáo này.

Năm 168, khi Trương Giác nhận được cuốn sách này, ông tạo ra một nhánh Đạo giáo mới của mình có tên gọi là “ Thái bình đạo ”, ông thường truyền đạo qua việc chữa bệnh cho mọi người, nói rằng nhờ phép thuật và nước thánh của ông mà mọi người mới hết bệnh. Nhờ một phần may mắn, tên tuổi của ông được truyền đi khắp cả nước và nhiều người phải đi cả nghìn dặm để được gặp ông chữa bệnh bằng nước thánh. Sau khi nổi danh, Trương Giác lấy cớ chữa bệnh để đưa các đồ đệ của mình đi khắp các châu truyền đạo. Năm 178, 10 năm sau khi lập ra Thái bình đạo, Trương Giác đã có hơn 100.000 người theo đạo và ông bắt đầu có ý tưởng lật đổ nhà Hán, tuy nhiên ông chưa bao giờ muốn mở ra một cuộc khởi nghĩa khắp cả nước bởi Trương Giác biết rằng những người theo ông đa phần là những nông dân tầng lớp thấp, phải bỏ quê nhà do thiên tai, thuế cao, trốn nghĩa vụ quân sự để không phải đánh với các bộ tộc du mục ở phía bắc, không có cơ hội để đánh bại được đội quân có tổ chức của nhà Hán cho dù có yếu tố bất ngờ đi chăng nữa. Vì vậy kế hoạch của họ là bất ngờ ập vào tấn công kinh thành rồi kiểm soát Hoàng đế, tuyên bố trời xanh đã hết, trời vàng lên thay, sử dụng sự ủng hộ của nhân dân khắp các châu để kiểm soát chính quyền địa phương.

Để làm được điều này, họ phải bỏ ra nhiều năm để chuẩn bị. Ở phía nam Trung Hoa, dưới sự giám sát lỏng lẻo của triều đình, Trương Giác sai Mã Nguyên Nghĩa tới để chiêu mộ và huấn luyện binh lính. Những người theo khởi nghĩa từ khắp Trung Hoa được tổ chức và chia làm 36 “ phương ”, mỗi phương từ 6.000 đến 10.000 người. Ở Lạc Dương, Trương Giác sai Đường Châu vào mua chuộc các quan chức trong triều, lợi dụng việc có nhiều người nhà của họ đã theo Thái bình đạo, cho rằng tôn thờ Trương Giác sẽ giúp họ hết bệnh hoặc sống lâu. Việc mua chuộc này khá thành công vì đa số các quan chức trong triều vốn đã quen với việc tham nhũng nên hứa sẽ bí mật giúp đỡ họ bao gồm nhiều hoạn quan nổi tiếng, giúp che giấu sự lớn mạnh của tôn giáo này trước mặt Hoàng đế. Để nhiều người ủng hộ cuộc khởi nghĩa hơn, Trương Giác sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền như ra nhiều bài hát và thơ cho cuộc khởi nghĩa. Như vậy là Trương Giác và các đồ đệ của ông đã chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa liên tục suốt nhiều năm. Mọi việc tiến triển vô cùng thuận lợi khi có nhiều thiên tai xảy ra vào năm 183 như động đất, hạn hán và nạn đói, khiến càng nhiều người tin rằng trời xanh đã hết và ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Trương Giác vào năm tới hơn. 

Trương Giác gọi Mã Nguyên Nghĩa cùng 10.000 quân lính đã huấn luyện từ phía nam bí mật lên Nghiệp Thành để hợp binh đánh vào Lạc Dương ngày 5 tháng 3 năm 184. Trương Giác chọn Nghiệp Thành làm tiền tuyến chính là do : thứ nhất, triều đình ít canh giữ và theo dõi khu vực này hơn so với kinh thành Lạc Dương ; thứ hai, Nghiệp Thành nằm ở vị trí chiến lược, là cửa ngỏ từ Lạc Dương đi lên phía bắc Trung Hoa, ở phía Đông Nam có sông Hoàng Hà, phía Tây Bắc có dãy Thái Hành Sơn làm rào chắn, dễ thủ khó công ; thứ ba, căn cứ chính của Trương Giác ở Cự Lộc nằm ở phía bắc cách Nghiệp Thành không xa, nắm giữ khu vực này sẽ an toàn cho họ sau cuộc khởi binh. Sau khi Mã Nguyên Nghĩa hoàn thành nhiệm vụ ở Nghiệp Thành, ông đến Lạc Dương để lãnh đạo các đồ đệ Thái bình chuẩn bị khởi nghĩa vào ngày 5 tháng 3. Nhưng ngày 15 tháng 2, gần 3 tuần trước cuộc khởi nghĩa, Đường Châu chịu trách nhiệm cho việc mua chuộc các quan chức nhà Hán phản bội Trương Giác không rõ lý do và báo cáo kế hoạch của quân Khăn Vàng cho triều đình.

Ngay lập tức Hoàng đế cho đóng tất cả cổng thành, phong Hà Tiến anh trai của Hoàng hậu Hà làm Đại tướng quân để bảo vệ Lạc Dương. Hà Tiến hạ lệnh bắt giữ Mã Nguyên Nghĩa, sau đó ngũ mã phanh thây ông. Không lâu sau đó, hơn 1.000 thành viên Thái bình đạo trong kinh thành bao gồm cả một số quan chức cũng bị bắt giữ và xử trảm. Triều đình gửi lệnh truy nã đến Cự Lộc để bắt giữ Trương Giác và các đồ đệ của ông. Ngay khi Trương Giác nghe tin, ông cho người thông báo mở cuộc khởi nghĩa ngay lập tức. Quân Khăn Vàng khắp các châu nhanh chóng nổi dậy khiến chính quyền địa phương hoàn toàn bất ngờ bởi họ có rất ít binh lính và không hề chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa lớn như vậy.

Trước khi tiếp tục, chúng ta phải nói một chút về khăn vàng và tại sao quân khởi nghĩa lại đeo chúng. Có rất nhiều lý do cho việc này nhưng lý do hiển nhiên nhất là vì nó rẻ. Mũ thời này chỉ dành cho tầng lớp quý tộc và tất nhiên ai cũng muốn đội nón sắt để giữ an toàn cho mình nhưng phần lớn những người theo khởi nghĩa là những nông dân chân lấm tay bùn, đào đâu ra mũ sắt ? Để cuộc khởi nghĩa trông có tổ chức hơn, họ phải chọn cùng một màu khăn nhưng tại sao lại là màu vàng ? Bởi vì theo những người thuộc Thái bình đạo, nhà Hán tượng trưng cho nguyên tố “ hoả ” trong ngũ hành, nguyên tố theo sau “ hoả ” là “ thổ ”, sau khi lửa cháy hết thì toàn bộ chỉ còn lại tro và đất, nghĩa là “ hoả sinh thổ ” và màu tượng trưng cho “ thổ ” là màu vàng. Quân khởi nghĩa hy vọng là mình sẽ thay thế nhà Hán. Khi nổi lên tấn công khắp nơi thì họ đã vô cùng thành công.

Do sự lớn mạnh không ngờ tới của quân Khăn Vàng, Hoàng đế đã làm một điều không tưởng khi ông mở kho bạc cá nhân và dùng số tiền của mình kiếm được qua mua việc quan bán chức để xây dựng quân đội ( ổng sẽ tìm cách kiếm tiền lại, yên tâm ). Ông cử Lư Thực đưa quân lên phía bắc, Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn xuống phía nam để đánh giặc. Hoàng đế còn tha cho sĩ nhân bị hại trong sự kiện “ Đảng Cố Chi Họa ” để phụ việc dẹp loạn và hạ lệnh cho phép chính quyền địa phương xây dựng lực lượng dân quân riêng để chống giặc Khăn Vàng.

Chúng ta đã nói về cuộc khởi nghĩa dưới góc độ của quân Khăn Vàng và giờ là lúc nói về cuộc phản công của nhà Hán. Sau khi quân khởi nghĩa liên tục chiếm được các vùng như Nam Dương, Dĩnh Xuyên, Nhữ Nam, ..... Hán Linh Đế trở nên lo lắng và phong anh rể mình là Hà Tiến làm Đại tướng quân bảo vệ kinh thành. Tướng quân Chu Tuấn và Hoàng Phủ Tung đưa 40.000 quân mới chiêu mộ xuống phía nam để phản công. Chu Tuấn đem 20.000 quân đánh thẳng vào Dĩnh Xuyên ở phía đông và bất ngờ bị thất bại ngay trong trận đầu tiên bởi ông không tưởng tượng nổi quân khởi nghĩa lại đông như vậy, đạo quân của Chu Tuấn ngay sau đó cũng bị bao vây. Hoàng Phủ Tung ban đầu dự định đưa quân đến Nam Dương để đánh Trương Mạn Thành nhưng phải quay trở lại để giải vây cho Chu Tuấn. Khi đến được Dĩnh Xuyên, binh lính nhà Hán cũng bị sốc bởi số lượng của quân Khăn Vàng và khuyên ông nên rút lui nhưng Hoàng Phủ Tung biết đa số quân của Ba Tài đều không có kinh nghiệm chiến đấu nên trấn tĩnh binh lính và tiếp tục tiến công. Ông dùng hoả công đánh vào doanh trại địch vừa đúng lúc viện quân từ đội kỵ binh do Tào Tháo chỉ huy mới đến và đạo quân bị bao vây của Chu Tuấn cùng lúc đánh ra. Quân của Hoàng Phủ Tung, Tào Tháo và Chu Tuấn bao vây Ba Tài và tiêu diệt hơn 10.000 quân Khăn Vàng chỉ trong một đêm.

Sau chiến thắng này, Dĩnh Xuyên phần lớn đã ổn định nên kỵ binh của Tào Tháo trở về kinh thành Lạc Dương trong khi Chu Tuấn và Hoàng Phủ Tung tiếp tục tiến xuống phía nam để hợp quân với Lưu Sủng cùng dẹp quân Khăn Vàng ở Trần Quận, sau đó tiếp tục tiến đánh đạo quân của Bành Thoát ở Nhữ Nam. Tại thời điểm này, mối nguy hiểm duy nhất gần kinh thành là đạo quân chiếm giữ Nam Dương của Trương Mạn Thành phía nam và đạo quân Khăn Vàng bao vây Đông Quận phía đông của Lạc Dương. Chu Tuấn và Hoàng Phủ Tung quyết định chia quân tại đây, Chu Tuấn dẫn quân xuống Nam Dương còn Hoàng Phủ Tung đem quân đi đánh Đông Quận.

Trong khi Đông Quận được dẹp yên dễ dàng bởi lực lượng địa phương và thái thú ở đây vẫn giữ được thành thì Nam Dương lại khó đánh hơn nhiều bởi vì ngay từ đầu cuộc khởi nghĩa, Trương Mạn Thành đã có thể chiếm được Uyển Thành và giết Thái thú Nam Dương là Trữ Cống. Mặc dù thái thú mới của Nam Dương là Tần Hiệt từ Trường Sa đem quân lên bao vây Trương Mạn Thành, thậm chí giết được Trương Mạn Thành trong trận đánh sau đó nhưng Uyển Thành vẫn nằm trong tay quân Khăn Vàng khi họ bầu chỉ huy mới thay thế là Triệu Hoằng. Trong vòng 2 tháng sau đó, Triệu Hoằng cùng 100.000 người theo Khăn Vàng trong thành bao gồm cả thường dân, phụ nữ và trẻ em quyết tử thủ. Cho đến khi đạo quân của Chu Tuấn tới hợp binh với Tần Hiệt vào tháng 8 giết được Triệu Hoằng thì quân Khăn Vàng vẫn giữ được Uyển Thành và bầu được thủ lĩnh mới là Hàn Trung. Họ giữ thành được 3 tháng nữa thì thất bại và bị đem ra giết sạch vào tháng 11 năm 184, chấm dứt toàn bộ quân Khăn Vàng ở phía nam Lạc Dương.

Giờ trở lại lúc mới bắt đầu cuộc khởi nghĩa và nói về đạo quân phía bắc của Lư Thực rời kinh thành cùng lúc với đạo quân phía nam của Chu Tuấn và Hoàng Phủ Tung. Đạo quân này theo đường thủy dọc sông Hoàng Hà và tiến vào căn cứ của nghĩa quân Khăn Vàng để đánh Trương Giác. Sau khi vượt sông, quân của Lư Thực đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác đồng thời cho quân mai phục các đường rút về Nghiệp Thành khiến Trương Giác không thể về đấy và buộc phải đưa quân sang phía đông tới Quảng Tông. Lư Thực cho bao vây thành, xây chiến hào xung quanh, bắn phá tường thành và chuẩn bị kế hoạch tấn công. Nhưng vào tháng 6, một hoạn quan tên là Tả Phong từ kinh thành đến để thị sát tiến độ của quân đội, bí mật đòi hối lộ từ Lư Thực. Lư Thực vốn là sĩ nhân ghét hoạn quan, tính tình lại thẳng thắn nên từ chối và đuổi ông ta về. Tả Phong tức giận bèn báo cáo với Hoàng đế rằng Lư Thực chỉ huy quân thụ động, không dám tấn công và thậm chí còn không muốn cuộc khởi nghĩa kết thúc.

Hán Linh Đế nổi giận, hạ lệnh bắt giam Lư Thực và xử án chung thân không khoan hồng, cho vời Đổng Trác lên làm chỉ huy. Nhưng cuộc tấn công của Đổng Trác vào Quảng Tông thất bại chiến thuật và giúp Trương Giác có chút không gian để thở. Không muốn mất mặt, Đổng Trác bỏ vây Quảng Tông rồi đưa quân lên phía bắc để đánh cánh quân của Trương Bảo nhưng cũng thất bại và buộc phải rút lui sau 2 tháng. Triều đình một lần nữa lại phải đổi chỉ huy. Tháng 8 năm 184, khi Hoàng Phủ Tung đã bình định được Đông Quận, triều đình cử ông lên phía bắc để thay thế Đổng Trác, còn Đổng Trác bị triệu về Lạc Dương, bị cắt chức và chờ ngày xử tội. Khi Hoàng Phủ Tung đến đấy, ông sử dụng chiến thuật của Lư Thực để bao vây Trương Giác, Trương Giác sau đó chết vì bệnh khi đang bị vây.

Mặc dù Trương Giác chết nhưng Hoàng Phủ Tung vẫn chưa thể chiếm thành ngay được vì quân Khăn Vàng bầu em Trương Giác là Trương Lương lên làm chỉ huy. Hoàng Phủ Tung giả vờ rút lui khiến Trương Giác không đề phòng và trở nên chủ quan, hạ lệnh đuổi theo, hy vọng tiêu diệt được “ tàn quân ” của triều đinh. Nhưng đây là một cái bẫy nhằm dụ Trương Lương ra khỏi thành, quân của Hoàng Phủ Tung phản công và nhanh chóng giết chết Trương Lương cùng với đội quân bên ngoài thành. 50.000 người bao gồm phụ nữ và trẻ em trong thành nhảy xuống sông tự sát tập thể. Hoàng Phủ Tung lấy lại được Quảng Tông, hạ lệnh đào mộ Trương Giác lên chém đầu, sau đó dâng thủ cấp của Trương Giác và Trương Lương lên cho triều đình. Giờ anh em họ Trương chỉ còn lại duy nhất Trương Bảo chỉ huy đạo quân 100.000 người bao gồm cả thường dân, phụ nữ và trẻ em. Trương Bảo không thể chống cự nổi và bị Hoàng Phủ Tung tiêu diệt. Không một ai theo quân Khăn Vàng được tha mạng, tất cả 100.000 người đều bị giết.

Để ghi nhớ trận đánh này, Hoàng Phủ Tung ra lệnh xây 1 kinh quan, tức là một ngọn đồi từ xác và xương của quân địch để cho thấy sức mạnh của nhà Hán và cảnh cáo tất cả những ai muốn nổi loạn lần nữa. Và như vậy cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng nổ ra vào cuối tháng 2 đã bị dập tắt vào tháng 11 cùng năm khi quân đội triều đình đánh bại được phần lớn nghĩa quân. Mặc dù một số quân địa phương vẫn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn như Trương Yên ở núi Hắc Sơn nhưng họ đã giảm mạnh các hoạt động của mình để không bị triều đình để ý tới và chờ cơ hội khác để tiếp tục nổi loạn. Trong tất cả những tướng quân tham gia dẹp loạn Khăn Vàng, Hoàng Phủ Tung được ban thưởng nhiều nhất, ông được phong làm Châu mục Ký châu, căn cứ cũ của anh em họ Trương để quản lý khu vực.

Ông đã chứng minh là mình cũng cai trị rất tốt khi xin triều đình miễn thuế cho người dân trong 1 năm để trấn an nhân dân và giúp nền kinh tế hồi phục sau 9 tháng chiến tranh liên tục. Cùng lúc Hoàng Phủ Tung cũng xin Hoàng đế tha cho Lư Thực, Hán Linh Đế vốn vui mừng sau khi đã dẹp loạn được bèn đồng ý, tha cho Lư Thực và để ông trở lại làm quan trong triều. Còn Chu Tuấn sau khi dẹp loạn ở Nam Dương cũng được ban thưởng hậu hĩnh và ngay cả Đổng Trác cũng được tha tội vào tháng 12 vì Hoàng đế rất vui. Vui vẻ chưa được bao lâu thì tin xấu lại tiếp tục đến kinh thành vào cuối mùa đông năm đó khi 1 cuộc khởi nghĩa mới ở phía tây diễn ra và thành trì lớn ở Lương Châu là Kim Thành rơi vào tay của tộc người Khương.

Cho đến tận thời điểm đó, triều Hán gần như không có động tĩnh gì bởi họ hy vọng cuộc khởi nghĩa sẽ tự kết thúc như những lần trước đó. Vì vậy triều đình chỉ đơn giản là đổi thứ sử vào năm 185 và hạ lệnh cho Hoàng Phủ Tung đưa quân trấn thủ Trường An phòng khi mọi việc nằm ngoài tầm kiểm soát. Thứ sử mà nhà Hán cử đến thay thế cho Tả Xương là Tống Toàn, một nho sĩ nổi tiếng, người một mực tin rằng Lương Châu khởi nghĩa là vì người dân ở đây ít được học hành và nếu ông có thể dạy văn thơ và nho giáo cho họ, mọi việc sẽ được giải quyết. Việc làm đầu tiên của ông khi đặt chân đến nơi đây là xin triều đình cả hàng nghìn bản Hiếu Kinh để ông có thể dạy dân địa phương. Tất nhiên khi tấu sớ đến Lạc Dương, nhà Hán không có bị khùng và thay ông bằng một thứ sử khác tên Dương Ung, người mua chức quan này, ông cho thu mua lương thực đem bán để lấy lại vốn và gây ra một nạn đói khủng khiếp ở Lương Châu. 

Để hiểu rõ hơn, chúng ta phải quay ngược thời gian một chút về năm 185 khi triều đình nhà Hán lần đầu phản ứng với cuộc khởi nghĩa. Lúc bấy giờ Biện Chương là chỉ huy nghĩa quân, cuộc tấn công ông vào thủ phủ Hán Dương làm cho Hoàng đế lo lắng vì nếu Hán Dương rơi vào tay quân nổi loạn thì mục tiêu tiếp theo rất có thể là Trường An, cố đô thời Tây Hán. Tháng 3 năm 185, Hán Linh Đế hạ lệnh cho Hoàng Phủ Tung đem quân đến trấn thủ Trường An phòng trường hợp quân khởi nghĩa chiếm được Hán Dương, mở đường tấn công Trường An. Tuy nhiên Hoàng Phủ Tung lại không có đất dụng võ bởi Cái Huân đã bảo vệ thành công được Hán Dương và buộc Biện Chương phải đưa quân tấn công nơi khác. Tháng 7 cùng năm, một “ chuyến thăm ” từ hoạn quan khiến Hoàng Phủ Tung bị giáng chức giống như Lư Thực trước kia bởi Hoàng Phủ Tung cũng là sĩ nhân ngay thẳng và từ chối đưa tiền đút lót cho hoạn quan.

Vì vậy vào tháng 8 năm 185, với việc Hoàng Phủ Tung bị sa thải và nghĩa quân dần chuyển hướng tiến công lên phía bắc thay vì đánh vào Trường An, các đại thần trong triều bắt đầu tranh cãi với nhau nên làm gì tiếp theo. Một bên đứng đầu là tân Tư đồ - Thôi Liệt cho rằng chính sách tốt nhất cho Trung Hoa hiện tại là rút toàn bộ quân đội và bỏ Lương Châu bởi đất nước hiện tại còn đang rất yếu do hậu quả của cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng chưa đầy 1 năm trước. Trước khi tiếp tục thì chúng ta hãy nói đôi chút về Thôi Liệt bởi đây là một nhân vật rất thú vị , trước đây từng giữ một chức vị trong Cửu khanh nhưng lại muốn thăng chức lên làm Tam công. Trong lần đầu tiến cử Thái uý, một trong 3 chức thuộc Tam công, cha của Tào Tháo là Tào Tung đã chiến thắng trước Thôi Liệt bằng cách trả gấp 3 lần giá mua gốc. Nếu mọi người còn nhớ thì Tào Tung thực chất không muốn giữ chức quan này, chỉ mua với giá trên trời rồi vài tháng sau từ quan để Hoàng đế bán tiếp, mục đích là để lấy lòng Hán Linh Đế vì kho bạc tư của Linh Đế gần như trống rỗng sau cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng. Vì bước đi này, Tào Tung lọt vào mắt xanh của Hoàng đế và được ban thưởng hậu hĩnh, cho về hưu xuống vùng phía nam an nhàn, tránh xa loạn lạc ở kinh thành.

Về phần Thôi Liệt, phải nói ông không phải là một quan chức tệ vì tự bản thân đã lên tới chức Cửu khanh rồi, nếu hệ thống chính trị nhà Hán trong sạch một chút thì rất có thể ông đã dùng tài năng của mình mà lên được tới chức Tam công, nhưng vì Lưu Hoành có vẻ như đang kinh doanh chứ không phải trị nước nên Thôi Liệt không thể tranh giành với các quan chức tham nhũng như Tào Tung được. Sau khi để lỡ mất cơ hội lần thứ nhất, Thôi Liệt cho rằng lần này mình cần phải thông minh hơn, ông dùng quan hệ của mình với nhũ mẫu của Linh Đế để xin Lưu Hoành giảm giá  50 %  bởi ông không có đủ tiền để trả 10 triệu ngũ thù cho chức Tư đồ. Hoàng đế cuối cùng cũng chịu đồng ý nhưng không hài lòng với sự “ keo kiệt ” của Thôi Liệt. Phe sĩ nhân trước giờ coi trọng tài năng của ông cũng trở nên thất vọng, giờ coi ông là quan chức tham nhũng, ngay cả con ông là cũng gọi ông là “ đồng xú ” ( 銅 臭 ) , từ để chỉ những vị quan tham nhũng.

Vì vậy khi Thôi Liệt nói muốn rút quân khỏi Lương Châu, rất nhiều sĩ nhân, bao gồm cả Nghị lang Phụ Nhiếp đều phản đối, cho rằng nhà Hán đã bỏ quá nhiều mồ hôi xương máu trong 400 năm qua chỉ để có được khu vực này, không thể nói bỏ là bỏ. Công bằng mà nói thì kinh tế nhà Hán lúc đó đã kiệt quệ vì cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng, thời điểm này lại gần mùa thu hoạch, huy động thêm 1 đội quân nữa sẽ ảnh hưởng tới sản lượng nông nghiệp của nhà Hán. Mặc dù vậy, phe sĩ nhân đã chiến thắng trong cuộc tranh luận và triều đình ngay lập tức hạ lệnh huy động một đội quân mới tiến vào dẹp loạn Lương Châu. Hoàng đế phong Trương Ôn làm Xa kỵ Tướng quân, dưới trướng là Phá kỵ Tướng quân Đổng Trác và Đãng khấu Tướng quân Chu Thận. Tham gia đội quân này còn có cả Tôn Kiên lúc bấy giờ là tướng dưới quyền Chu Thận nhưng chức vụ nhỏ không kể, mặc dù có đưa ra một số chiến lược hay nhưng đều bị cấp trên bác bỏ.

Quân Hán ngay lập tức mở nhiều chiến dịch tấn công nhưng thường hoà hoặc thua Biện Chương do ông quen thuộc với địa hình ở đây hơn. Vào tháng 11, một ngôi sao băng bay qua trại lính của người Khương khiến tộc người này hoảng sợ, tin rằng đây là dấu hiệu các vị thần đang tức giận với họ. Đổng Trác là người sinh ra, lớn lên và kết thân với tộc Khương, biết họ sợ hiện tượng này nên khuyên Trương Ôn phản công. Đội quân nhà Hán chiến thắng được vài trận khiến nghĩa quân bỏ chạy thì Trương Ôn trở nên chủ quan và chia quân theo 6 hướng đuổi theo nhằm diệt sạch quân nổi loạn. Cả 6 đạo quân đều thất bại, chỉ có duy nhất đạo quân của Đổng Trác rút lui thành công và bảo toàn được lực lượng, còn 5 đạo quân kia hoàn toàn bị tiêu diệt, vì vậy trong khi tất cả các chỉ huy đều bị trị tội thì Đổng Trác là người chịu tội nhẹ nhất. Với thất bại này, quân đội Hán rơi vào kiệt quệ và không thể tiến vào Lương Châu được trong một thời gian dài.

Nhưng về phía quân khởi nghĩa ở Lương Châu cũng có một số sự kiện thú vị diễn ra khi Biện Chương lâm bệnh và qua đời vào năm 187, mở ra một cuộc nội chiến giành quyền kiểm soát nghĩa quân giữa Bắc Cung Bá Ngọc và Lý Văn Hầu. Hàn Toại nhân cơ hội đảo chính giết luôn cả 2 người. Sau khi giành quyền kiểm soát nghĩa quân giờ đã lên tới 100.000 người, Hàn Toại tiếp tục lên kế hoạch mở một cuộc tấn công mới vào Hán Dương. Lần này Hán Dương được trấn thủ bởi Thứ sử Lương Châu - Cảnh Bỉ và Thái thú Hán Dương - Phụ Nhiếp, dưới trướng họ là 2 tướng quân Mã Đằng và Vương Quốc.

Ban đầu vào tháng 4 năm 187, tân Thứ sử - Cảnh Bỉ ra sức tập hợp tàn dư lực lượng quân Hán bằng cách viết thư xin 6 thái thú tại Lương Châu đem quân đi đánh Hàn Toại vì ông nghĩ nghĩa quân đang suy yếu sau cuộc nội chiến nhưng thực chất nghĩa quân vẫn còn đang rất mạnh với số lượng áp đảo và có tới 2 thái thú đào ngũ đem quân gia nhập khởi nghĩa để bảo vệ mạng sống thay vì phải chiến đấu cùng Cảnh Bỉ. Về phần Cảnh Bỉ, ông đã bị giết bởi người của mình do Vương Quốc dẫn đầu, giờ cũng chọn gia nhập nghĩa quân để bảo vệ mạng sống của mình. Tại thời điểm này Lương Châu về cơ bản đã vượt quá tầm kiểm soát của nhà Hán bởi quân đội Hàn Toại không chỉ ngày một lớn mạnh mà còn kiểm soát phần lớn địa bàn tại Lương Châu. Vương Quốc dùng lực lượng của mình để bao vây tàn dư của Phụ Nhiếp đang cố thủ tại Hán Dương cho đến lúc Mã Đằng cùng các tướng khác thấy không còn lý do gì để tiếp tục tử thủ nên quyết định gia nhập nghĩa quân và giết luôn cả Phụ Nhiếp. Lương Châu chính thức rơi vào tay quân khởi nghĩa.

Lúc bấy giờ có 2 phe phái chính trong nghĩa quân, thứ nhất là quân người Hán đào ngũ tham gia khởi nghĩa, đứng đầu là Vương Quốc và Mã Đằng ; thứ hai là tộc người Khương tham gia nghĩa quân đứng đầu là Hàn Toại nhưng bản thân ông cũng là người Hán. 2 phe phái quyết định liên minh lực lượng với nhau và tôn Vương Quốc lên làm chỉ huy. Nghĩa quân do Vương Quốc chỉ huy, bắt đầu tấn công các vùng nằm ngoài Lương Châu. Lần đầu tiên kể từ thất bại của Trương Ôn, nhà Hán cho xây dựng một đội quân nữa vì quân khởi nghĩa đang đe dọa đến Trường An, Hán Linh Đế buộc phải dùng lại Hoàng Phủ Tung và Đổng Trác, cho mỗi người chỉ huy 2 vạn quân trấn giữ Trường An.

Mặc dù có sự khác biệt giữa chiến lược của Hoàng Phủ Tung và Đổng Trác, Hoàng Phủ Tung vẫn là cấp trên của Đổng Trác nên có thể buộc quân đội sử dụng chiến lược của mình. Cho dù đánh đuổi được quân khởi nghĩa và bảo vệ được Trường An nhưng mối quan hệ giữa Hoàng Phủ Tung và Đổng Trác dần trở nên rạn nứt và sẽ ảnh hưởng tới một số sự kiện sau đó khi Đổng Trác nắm quyền triều chính. Đối với quân khởi nghĩa, thất bại của Vương Quốc khiến ông phải rút toàn bộ quân đội về Lương Châu. Thất bại này cũng dẫn tới một số vấn đề khác vì Vương Quốc giờ bị coi là chỉ huy yếu kém và không xứng đáng lãnh đạo nghĩa quân nữa nên nội chiến diễn ra. Cuối năm 189, nghĩa quân chia làm 3 phe phái chính do Mã Đằng, Hàn Toại và Tống Kiến lãnh đạo.

Trong khi quân Hán thành công trong việc bảo vệ Trường An thì họ không thể tiến sâu vào Lương Châu để tiêu diệt hoàn toàn nghĩa quân bởi Hán Linh Đế băng hà vào cùng năm đó, một chuỗi các sự kiện chính trị tại Lạc Dương sau đó một lần nữa lại đẩy đất nước Trung Hoa vào đại loạn. Như mọi người đã biết, nhờ vào sự hỗn loạn đó, Đổng Trác nắm quyền và dời đô từ Lạc Dương về Trường An do bị liên quân của Viện Thiệu đuổi đánh. Việc dời đô này có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc Khởi nghĩa Lương Châu bởi giờ đây nó không còn là cuộc nổi loạn ở biên cương nữa mà Đổng Trác và quân đội của mình đã dời vào Trường An nằm sát ngay Lương Châu. Nghĩa quân biết rõ điều đó, Mã Đằng và Hàn Toại cũng biết mình trước đây vốn là sĩ quan trong quân đội nhà Hán, có thể đầu hàng và quy phục Đổng Trác vốn đang cần đồng minh nên họ quyết định làm vậy và được Đổng Trác phong làm quan. Nhưng Tống Kiến không thích làm việc cho triều đình, quyết định đưa quân đội về phía tây vào đất của người Khương và thành lập một vương quốc nhỏ ở đây trong vòng 30 năm và cả 3 nước thời Tam quốc không quan tâm đến sự tồn tại của vương quốc nhỏ bé này.

Chúng ta bắt đầu loạt bài này với cái chết của một Hoàng đế nên cũng sẽ kết thúc với cái chết của một Hoàng đế. Đối với trường hợp của Hán Linh Đế - Lưu Hoành, việc ông băng hà cũng chính là thời điểm chấm dứt của nhà Hán bởi 2 người con của ông Lưu Biện và Lưu Hiệp sau này không nắm được thực quyền và cả đời làm Hoàng đế bù nhìn. Trước khi bắt đầu cũng cần phải làm rõ về Lưu Hoành một chút bởi phần lớn bài viết thường tập trung nói về việc Hán Linh Đế tham nhũng như thế nào. Đúng là những điều ấy hoàn toàn có thật nhưng cũng không thể đổ hết mọi trách nhiệm lên đầu ông được. Chúng ta cần phải nhớ rằng ông chỉ là một cậu bé mồ côi cha, vô tư vô nghĩ lúc được ngoại thích Đậu Vũ đưa lên làm Hoàng đế bù nhìn. Hơn thế nữa, ông lại được hoạn quan nuôi dưỡng, những người này làm ảnh hưởng đến việc giáo dục của ông ngay từ bé và Linh Đế rất tin tưởng họ bởi ông cho rằng hoạn quan là người cứu mình khỏi trở thành Hoàng đế bù nhìn của ngoại thích Đậu Vũ.

Thật ra nếu so sánh với tiên đế Lưu Chí và hậu đế Lưu Biện, Lưu Hiệp, chúng ta có thể thấy Hán Linh Đế là người có nhiều quyền lực nhất nhờ có các hoạn quan. Nói như thế là để cho mọi người biết việc nhà Hán sụp đổ là do hệ thống chính trị mục rỗng chứ không riêng gì Hoàng đế. Việc ngoại thích nắm giữ quyền lực, đối với Lưu Hoành mà nói, cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng đã khiến Hoàng đế vô cùng bất ngờ vì vốn nghĩ Trung Hoa đang vô cùng yên ổn và chỉ lo sống hưởng thụ. Để đối phó với quân Khăn Vàng đang càng ngày càng tiến gần đến kinh thành, Hoàng đế đã thay mối nguy ngắn hạn bằng mối nguy dài hạn bằng cách phong anh rể của mình là Hà Tiến làm Đại tướng quân chỉ huy Ngự Lâm Quân và Ngũ Doanh để bảo vệ Lạc Dương. Ban đầu thì việc này khá hợp lý bởi Hà Tiến là người ít có thể phản bội ông nhất và gia tộc họ Hà vốn nợ Hoàng đế rất nhiều ân tình.

Cha của Hà Tiến chỉ là dân thường, kiếm sống bằng nghề bán thịt, mẹ ông mất sớm nên cha tái hôn, sau đó sinh 1 người con trai và 1 người con gái là Hà Hoàng hậu. Mặc dù Hà Tiến và Hà Hoàng hậu chỉ là anh em cùng cha khác mẹ nhưng do cha mất sớm nên Hà Tiến phải đi làm từ nhỏ để nuôi em mình, 2 người trở nên vô cùng thân thiết. Từ dân thường mà được lên làm Đại tướng quân và Hoàng hậu, tất nhiên nhà họ Hà rất mang ơn cứu giúp của Hoàng đế. Lưu Hoành và Hà Hoàng hậu có người con cả là Lưu Biện nên họ cũng không cần phải lo về chuyện nối ngôi nữa. Lưu Hoành lại có 1 người con khác là Lưu Hiệp nhỏ hơn Lưu Biện 5 tuổi và được Hoàng đế yêu thích hơn do có tố chất thông minh từ nhỏ. Hán Linh Đế muốn bí mật đi ngược lại với truyền thống và cho Lưu Hiệp lên ngôi Hoàng đế, vì vậy để Hà Tiến làm Đại tướng quân có thể là mối nguy cho Hoàng đế sau này.

Ban đầu mọi người có thể nghĩ đây là xung đột giữa Hoàng đế và gia tộc họ Hà, đứng đầu là Hà Hoàng hậu và Hà Tiến. Thực tế cả 3 nhân vật này đều đại diện cho 3 phe phái khác nhau bởi Hà Hoàng hậu cũng là một nhân vật vô cùng quyền lực và đã xây dựng được một liên minh với các hoạn quan, những người mà anh trai bà muốn tiêu diệt. Về vấn đề ai sẽ nối ngôi, Hà Tiến và Hà Hoàng hậu đều cùng phe với nhau nhưng đối với những vấn đề khác như quyền lực của hoạn quan và sự kiện “ Đảng cố chi họa ” như đã nói đến, Hà Hoàng hậu và Hoàng đế lại có chung ý kiến trong khi Hà Tiến giữ chức vị cao trong triều lại liên minh với các sĩ nhân và các quý tộc như Tào Tháo và Viên Thiệu.

Dù là vấn đề nào đi chăng nữa thì Lưu Hoành và Hà Tiến cũng đối lập với nhau và vì Hoàng đế không thể phế truất Hà Tiến khỏi chức Đại tướng quân mà không làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa ông và Hà Hoàng hậu nên Hán Linh Đế phải nghĩ ra cách khác để làm giảm binh quyền của Hà Tiến. Hoàng đế hạ lệnh thành lập một đội quân cho riêng mình, đứng đầu là “ Tây Viên Bát Hiệu uý ” ( 西 园 八 校 尉 ) , lấy cớ là để dẹp yên các cuộc nổi loạn diễn ra liên tục như ở Lương Châu và U Châu nhưng thực tế là bí mật muốn đội quân này làm suy yếu, thậm chí giết luôn cả Hà Tiến và đảm bảo Lưu Hiệp sẽ lên ngôi sau khi ông mất. Như cái tên đã nói, Lưu Hoành chọn ra 8 tướng lĩnh chỉ huy đội quân và để Hà Tiến khỏi phải nghi ngờ, ông đồng thời đưa một số sĩ nhân và quý tộc thân thích với ông lên làm chỉ huy. Sau đây là danh sách các hiệu uý từ cấp cao xuống dưới thấp :

1/ Kiển Thạc ( 蹇 碩 ) , Thượng quân Hiệu uý ( 上 軍 校 尉 )

2/ Viên Thiệu ( 袁 紹 ) , Trung quân Hiệu uý ( 中 軍 校 尉 )

3/ Bào Hồng ( 鮑 鴻 ), Hạ quân Hiệu uý ( 下 軍 校 尉 )

4/ Tào Tháo ( 曹 操 ) , Điển quân Hiệu uý ( 典 軍 校 尉 )

5/ Triệu Dung ( 趙 融 ) , Trợ quân Tả Hiệu uý ( 助 軍 左 校 尉 )

6/ Phùng Phương ( 馮 芳 ) , Trợ quân Hữu hiệu uý ( 助 軍 右 校 尉 )

7/ Hạ Mâu ( 夏 牟 ) , Hữu quân Hiệu uý ( 右 軍 校 尉 )

8/ Thuần Vu Quỳnh ( 淳 于 琼 ) , Tả quân Hiệu uý ( 左 軍 校 尉 )


Ngay lập tức, chúng ta thấy 2 nhân vật quen thuộc là Viên Thiệu và Tào Tháo giữ vị trí số 2 và số 4 trong đội quân. Nhưng nhân vật đáng chú ý hơn là người đứng đầu đội quân này, tức Kiển Thạc, là 1 hoạn quan, mặc dù không nằm trong số “ Thập thường thị ” ( 十 常 侍 ) thực chất gồm 13 hoạn quan cấp cao nhưng ông cũng là 1 hoạn quan trẻ, cực kỳ trung thành với Hoàng đế và Hán Linh Đế đã giao trách nhiệm cho ông đưa Lưu Hiệp lên ngôi. Một người đáng chú ý nữa là Phùng Phương, cha của Phùng Phu nhân, vợ Viên Thuật, cũng có thể coi là người nhà của Viên gia, cho thấy Hoàng đế đã chọn lựa rất kỹ để tránh Hà Tiến nghi ngờ đồng thời cũng đưa người ông tin tưởng nhất lên đứng đầu.

Chúng ta cần phải giới thiệu một chút về Viên Thiệu, người rất ít xuất hiện trong loạt bài này mặc dù chúng ta đã nói rất nhiều về gia tộc “ Tứ thế Tam công ” quyền lực của nhà họ Viên, đó là bởi vì trong khoảng thời gian này, Viên Thiệu chỉ là một thường dân do không muốn làm quan lớn trong khi các hoạn quan đang nắm giữ quyền lực sau 2 sự kiện “ Đảng cố chi họa ”. Viên Thiệu đã tránh sự hỗn loạn trong triều đình bằng cách lợi dụng cái chết của mẹ mình nhằm về để tang mẹ trong 3 năm. Mặc dù ngày nay nghe có vẻ khá lạ nhưng để tang lâu như vậy là một truyền thống quan trọng trong nho giáo vốn coi trọng sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, đây là một cái cớ hoàn hảo để tránh khỏi chốn quan trường khắc nghiệt trong khi cho thấy mình là một người con hiếu thảo trong mắt các nho sĩ, sau này sẽ có lợi khi trở lại làm quan.

Viên Thiệu vừa để tang mẹ mình trong 3 năm vừa nghe ngóng tình hình “ Đảng cố chi họa ”. Sau khi biết được phe hoạn quan lại chiến thắng trước sĩ nhân, ông lại xin triều đình cho mình để tang cha thêm 3 năm nữa do lúc cha ông mất, ông chưa kịp có thời gian để tang. Đó chính là lý do vì sao Viên Thiệu lại ít được nhắc tới trong loạt bài này bởi ông bỏ ra 6 năm trời ở nhà tránh khỏi chốn quan trường để chịu tang cho cha mẹ. Điều này khiến cho danh tiếng của Viên Thiệu ngày càng vang xa bởi ông được giới nho sĩ coi là một tấm gương hiếu thảo đáng học tập khiến cho họ bỏ công đến thăm ông. Nhưng đây chỉ là một cái cớ để các nho sĩ đến gặp Viên Thiệu, họp bàn và thành lập một liên minh bí mật trả thù hoạn quan, bao gồm những người như Tào Tháo, Trương Mạc, Điền Phong, Thư Thụ, .....

Tất nhiên các hoạn quan không có ngu, họ biết các nho sĩ liên tục đến thăm nhà Viên Thiệu không chỉ để học tập tính hiếu thảo của ông. Họ muốn dừng Viên Thiệu lại nhưng nhà họ Viên lúc đó là một gia tộc vô cùng quyền lực, các hoạn quan cũng biết có chừng mực và chỉ dám đến xin chú của Viên Thiệu là Viên Ngỗi, lúc bấy giờ làm chức Thái phó, kiểm soát Viên Thiệu lại trước khi ông làm điều gì đó dại dột. Chỉ điều này thôi cũng cho thấy Viên gia quyền lực như thế nào, ngay cả Thập thường thị cũng lo ngại không dám đối đầu trực tiếp với Viên Thiệu. Nhờ bước đi thông minh của Viên Thiệu là chịu tang cha mẹ đã giúp ông có được 3 lợi thế lớn.

Thứ nhất, ông không thể bị bắt đi làm việc cho triều đình trong giai đoạn này khiến cho các hoạn quan không thể nào làm khó ông như Lư Thực và Hoàng Phủ Tung.

Thứ hai, ông có thời gian và cái cớ để xây dựng đồng minh trong khi vẫn ở nhà chịu tang.

Thứ ba, và quan trọng nhất, việc ông từ quan, ở nhà để tang cha mẹ trong 6 năm đã khiến cho ông trở nên nổi tiếng trong giới nho sĩ, ông càng được tôn trọng và khó bị làm hại hơn.

Nhưng cuối cùng, việc Lưu Hoành triệu ông vào cung cũng chấm dứt 6 năm chịu tang và Viên Thiệu trở thành tướng lĩnh đứng thứ 2 trong đội quân Tây Viên của Hoàng đế, một phần cũng nhờ danh tiếng ông có được do để tang. Tuy nhiên, những nỗ lực của Hán Linh Đế cũng trở nên vô ích vì vào tháng 5 năm 189, chỉ vài năm sau khi quân đội Tây Viên thành lập, Hoàng đế lâm bệnh và băng hà ở tuổi 33 trước khi kịp phong Lưu Hiệp lên làm người kế vị. Vậy là theo lẽ tự nhiên, con cả Lưu Biện sẽ là người lên nối ngôi. Nhưng đội quân Tây Viên vẫn còn đó và Thượng quân Hiệu uý Kiển Thạc biết rõ Hán Linh Đế muốn gì, ông đến bàn bạc kế hoạch lập Hoàng đế mới với các hoạn quan cấp trên là Triệu Trung và Trương Nhượng, 2 người đứng đầu Thập thường thị. Tuy nhiên họ không muốn thay Hoàng đế bởi Thập thường thị vốn là đồng minh của Hà Hoàng hậu, giờ trở thành Hà Thái hậu, họ khuyên ông nên án binh bất động. Nhưng Kiển Thạc là người rất trung thành với Hán Linh Đế - Lưu Hoành và cho rằng mình phải làm theo kế hoạch đã định.

Việc này làm cho Thập thường thị vô cùng khó chịu bởi họ thích tình hình hiện tại hơn, do đó Trương Nhượng quyết định phản bội Kiển Thạc và thông báo cho Hà Thái hậu biết về kế hoạch của Kiển Thạc. Ngay lập tức, Hà Tiến mang Ngự Lâm Quân đến giết chết Kiển Thạc trước khi ông kịp hành động. Lúc bấy giờ, đội quân riêng của Lưu Hoành lập ra để đưa Lưu Hiệp lên ngôi đã trở thành đội quân do Viên Thiệu chỉ huy bởi cả Lưu Hoành và Kiển Thạc đều đã chết. Do Viên Thiệu là đồng minh của Hà Tiến nên đương nhiên đội quân này cũng rơi vào tay Đại tướng quân Hà Tiến. Có thể thấy lúc này tại Lạc Dương, triều đình chia làm 2 phe phái chính, một bên là các hoạn quan và Hà Thái hậu ; một bên là Hà Tiến, người nắm giữ binh quyền vô cùng lớn trong tay, Thái phó Viên Ngỗi, một nho sĩ có tiếng trong thiên hạ, và Trung quân Hiệu uý Viên Thiệu, người nắm binh quyền được các nho sĩ coi trọng, ông đồng thời cũng dùng quan hệ của mình với Hà Tiến và Viên Ngỗi để nhanh chóng nắm giữ quyền lực.

Vì vậy Viên Thiệu khuyên Hà Tiến nên triệt để tiêu diệt hoạn quan lúc họ không nắm giữ binh quyền trong tay nhưng Hà Tiến lại chần chừ không quyết đoán, ở góc độ cá nhân, ông vốn ghét các hoạn quan cũng như bao gia tộc khác, nhưng dù sao họ cũng thông báo cho ông biết về kế hoạch đảo chính của Kiển Thạc và ủng hộ Lưu Biện lên làm Hoàng đế, đồng thời Hà Thái hậu cũng nhiều lần can dự, khuyên Hà Tiến không nên giết đồng minh của mình. Thấy Hà Tiến không muốn động binh, Viên Thiệu bèn dùng kế khác, khuyên ông nên mời các xứ quân địa phương tập trung đến kinh thành Lạc Dương để tăng cường lực lượng. Thực tế Viên Thiệu muốn bí mật dùng những đội quân này để đe dọa và ép Hà Tiến phải động binh.

Kế hoạch thành công do Hà Tiến cũng muốn tăng cường lực lượng trong quân đội mình và mời vô số các quân phiệt địa phương tới Lạc Dương. Nổi tiếng nhất trong số này phải kể đến Đổng Trác, vô cùng gian xảo khi mang rất nhiều binh lính hơn so với yêu cầu nhưng lại không gia nhập doanh trại của Hà Tiến như những người khác. Tại thời điểm này, Đổng Trác đã bị triều đình “ thất sủng ” do những thất bại trong cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng và Khởi nghĩa Lương Châu, vì vậy ông ta cẩn trọng ngồi chờ cơ hội để tiến công. 

Với lực lượng quân phiệt địa phương ngày càng tụ tập đông đảo bao vây kinh thành như vậy, các hoạn quan biết chuyện gì đang diễn ra nên họ phải hành động thật nhanh trước khi Hà Tiến đổi ý và đánh vào cung. Họ xin Hà Thái hậu triệu tập Hà Tiến vào cung để thương lượng nhưng lại bí mật giết Hà Tiến mà không nói cho Thái hậu biết. Hà Tiến vốn chủ quan do lực lượng và binh quyền đang ngày càng lớn mạnh, lại không nghĩ em gái mình sẽ làm gì hại nên đồng ý. Hà Tiến vào cung mặc cho lời can ngăn của Tào Tháo và Viên Thiệu nên họ đành mang đội hộ tống đến trước cổng thành. Khi đến đó, lính gác chỉ cho phép Hà Tiến vào trong cung do nhiều người như vậy vào gặp Hà Thái hậu thì không tiện. Ngay khi Hà Tiến vừa bước một mình vào cung, các hoạn quan không thương lượng gì cả mà chém ngay luôn Hà Tiến.

Chờ đợi bên ngoài quá lâu, Tào Tháo và Viên Thiệu trở nên lo lắng. Khi họ hét vào trong thành hỏi Hà Tiến thế nào rồi, lính gác chỉ đơn giản ném thủ cấp của Hà Tiến xuống và nói Đại tướng quân đã cố ám sát tân Hoàng đế nên bị giết ngay tại chỗ. Biết rằng các hoạn quan đứng sau việc này, Tào Tháo và Viên Thiệu lập tức hạ lệnh cho quân đội ập vào trong thành, giết hết tất cả các hoạn quan họ có thể tìm được. Trong khi Tào Tháo và Viên Thiệu đã trở nên điên tiết, Triệu Trung và Trương Nhượng bắt Hoàng đế chạy trốn khỏi kinh thành cho đến khi bị đội quân của Đổng Trác bắt giữ. Với việc kinh thành rơi vào hỗn loạn do hành động trả thù của Viên Thiệu và Tào Tháo, Ngự Lâm Quân và Ngũ Doanh trước đây dưới quyền của Hà Tiến giờ không còn lãnh đạo, tôn Đổng Trác lên làm chỉ huy. Ông vào kinh thành với tư cách là người giải cứu Hoàng đế. 

Mặc dù nhà Hán trên lý thuyết vẫn chưa sụp đổ cho đến tận năm 220 khi Tào Phi ép Hán Hiến Đế - Lưu Hiệp nhường ngôi nhưng ngay từ giây phút thủ cấp của Hà Tiến bay ra khỏi kinh thành và Đổng Trác đưa quân vào Lạc Dương kiểm soát Hoàng đế, kết cục của nhà Hán đã được định sẵn.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét